Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2012

Theo Tổng cục Thống kê

Kinh tế-xã hội nước ta chín tháng qua tiếp tục đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế thế giới trầm lắng với khủng hoảng nợ công tại một số nước Châu Âu tiếp tục gây bất ổn lớn. Hoạt động đầu tư trì trệ cùng với xuất khẩu giảm ở hầu hết các nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng giảm sút. Ở trong nước, thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp dẫn đến hàng tồn kho ở mức cao.

Để ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, Chính phủ kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo điều hành, trọng tâm là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 và Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012. Các ngành, địa phương, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế và cơ sở sản xuất kinh doanh đã và đang nỗ lực phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp, phấn đấu vượt qua những cam go mà nền kinh tế đang phải đối mặt. Kết quả sản xuất kinh doanh của các ngành, lĩnh vực chín tháng năm 2012 như sau:

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2012 ước tính tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 5,77% của chín tháng năm 2011. Tốc độ tăng GDP quý I năm nay là 4,00%; quý II tăng 4,66%; quý III tăng 5,35%. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế chín tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,48%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,36%, đóng góp 1,82 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,97%, đóng góp 2,51 điểm phần trăm. Mức tăng trưởng cả ba khu vực chín tháng năm nay đều thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2011[1]. Nhìn chung, mức tăng trưởng kinh tế chín tháng năm nay là hợp lý trong điều kiện cả nước tập trung thực hiện mục tiêu của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước chín tháng năm 2011 và năm 2012 %

 

Tốc độ tăng so với

9 tháng năm trước

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 9 tháng 
năm 2012

 

9 tháng 
năm 2011

9 tháng năm 2012

Tổng số

5,77

4,73

4,73

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

3,75

2,48

0,40

Công nghiệp và xây dựng

5,85

4,36

1,82

Dịch vụ

6,50

5,97

2,51

 

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chín tháng năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 173,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 120,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9%; lâm nghiệp đạt 5,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2%; thuỷ sản đạt 47,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%.

Nông nghiệp

Tính đến trung tuần tháng Chín, cả nước đã gieo cấy được 1716,8 nghìn ha lúa mùa, bằng 100,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1184,6 nghìn ha, bằng 99,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 532,3 nghìn ha, bằng 103,6%. Diện tích gieo cấy lúa mùa ở các địa phương phía Bắc giảm do thời vụ thu hoạch lúa đông xuân chậm. Theo báo cáo từ các địa phương, diện tích gieo cấy lúa mùa vùng Đồng bằng sông Hồng giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước, Bắc Trung Bộ giảm 3,8%. Một số địa phương có diện tích lúa mùa giảm nhiều là: Nghệ An giảm 5,8 nghìn ha; Thái Bình giảm 1,6 nghìn ha; Phú Thọ giảm 1,4 nghìn ha. Bão số 5 và mưa lớn xảy ra đầu tháng Chín làm ngập úng và hỏng nhiều diện tích lúa ở một số địa phương như: Thanh Hóa có 10,6 nghìn ha có khả năng mất trắng; Nghệ An có 20,8 nghìn ha lúa bị ngập úng, trong đó 11,7 nghìn ha bị ngập nặng; Hà Tĩnh có 3,9 nghìn ha bị ngập, trong đó 672 ha bị mất trắng. Hiện nay hầu hết các diện tích lúa bị hư hại đã được phục hồi nhưng khả năng sẽ ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch. Nếu những tháng cuối năm không bị ảnh hưởng của sâu bệnh và thời tiết thuận thì sản lượng lúa mùa cả nước năm nay ước tính đạt 9,3 triệu tấn, xấp xỉ vụ mùa năm trước.

Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương trên cả nước đang bước vào thu hoạch lúa hè thu. Tính đến 15/9/2012, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1697 nghìn ha lúa hè thu, bằng 101,6% cùng kỳ năm trước và chiếm 84,4% diện tích gieo trồng, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1582,6 nghìn ha, bằng 99,2% và bằng 72% diện tích xuống giống. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 52 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 13,8 triệu tấn, tăng 2,9%.

Đến trung tuần tháng Chín, cả nước đã gieo trồng được 972,7 nghìn ha ngô, bằng 98,2% cùng kỳ năm 2011; 130,5 nghìn ha khoai lang, bằng 98,1%; 208,1 nghìn ha lạc, bằng 96,7%; 115 nghìn ha đậu tương, bằng 65,1% và 825,6 nghìn ha rau, đậu, bằng 104%.

Sản lượng cây lâu năm tiếp tục tăng do nhiều diện tích đến kỳ cho sản phẩm. Sản lượng cao su năm 2012 ước tính đạt 858,1 nghìn tấn, tăng 8,7% so với năm trước; cà phê đạt 1291,1 nghìn tấn, tăng 1,1%; chè đạt 897,5 nghìn tấn, tăng 2,1%; điều 317,5 nghìn tấn, tăng 2,7%; hồ tiêu 112,7 nghìn tấn, tăng 0,6%; dừa 1237 nghìn tấn, tăng 3%. Trong các cây ăn quả, sản lượng dứa năm nay ước tính bằng 106,3% năm trước; cam quýt bằng 102%; xoài bằng 91,3%; chuối bằng 98,1%; nhãn bằng 91% và vải bằng 80%. Sản lượng một số cây ăn quả giảm chủ yếu do thời tiết không thuận lợi, mặt khác nhiều diện tích trồng cây ăn quả đang được cải tạo và chuyển đổi.

Mặc dù chăn nuôi trong trong sáu tháng đầu năm phát triển khá nhưng quý III có xu hướng giảm do giá thức ăn và các chi phí khác ở mức cao. Mặt khác, dịch bệnh trên vật nuôi tuy không bùng phát thành dịch nhưng thường xuyên xảy ra, nhất là dịch cúm gia cầm và dịch bệnh tai xanh trên lợn gây ảnh hưởng đến phát triển đàn. Tính đến giữa tháng Chín, đàn trâu cả nước giảm 5% so với cùng kỳ năm 2011; đàn bò giảm 6,5%; đàn lợn, đàn gia cầm xấp xỉ cùng kỳ. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng chín tháng đạt bằng cùng kỳ năm trước; thịt bò hơi xuất chuồng ước tính tăng 1,5%; thịt lợn hơi tăng 2,6%; thịt gia cầm tăng 7%. Tính đến 25/9/2012, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh là: Dịch cúm gia cầm ở Tuyên Quang, Thái Bình, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi; dịch bệnh tai xanh ở 4 tỉnh:  Bắc Kạn, Quảng Nam, Đắk Lắk và Cần Thơ.

Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung chín tháng ước tính đạt 123,5 nghìn ha, bằng 95,2% cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 164,1 triệu cây, tăng 0,3%; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 411 nghìn ha, tăng 1,3%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 932 nghìn ha, bằng mức cùng kỳ năm 2011; diện tích rừng được bảo vệ đạt 2302 nghìn ha, giảm 2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3418,5 nghìn m3, tăng 11,5%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao là: Đồng Nai 157,4 nghìn m3, tăng 64,2%; Quảng Bình 215,1 nghìn m3, tăng 57,6%; Bắc Kạn 132,8 nghìn m3, tăng 51,6%; Yên Bái 350 nghìn m3, tăng 32,1%; Thái Nguyên 140,3 nghìn m3, tăng 26,8%; Lâm Đồng 152,9 nghìn m3, tăng 25,4%. Sản lượng củi khai thác đạt 22 triệu ste, tăng 2,3%.

Do thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài nên xảy ra hiện tượng cháy rừng ở một số địa phương, đặc biệt là các tỉnh thuộc khu vực Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Trong chín tháng năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 3011 ha, tăng 50,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 2065 ha, gấp 2 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 946 ha. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Hà Giang 298 ha; Đà Nẵng 180 ha; Lạng Sơn 130 ha; Phú Yên 106 ha; Lào Cai 100 ha; Thừa Thiên -Huế 92 ha. Một số tỉnh có diện tích rừng bị chặt, phá nhiều là: Đắk Nông 157 ha; Lâm Đồng 109 ha; Kon Tum 101 ha; Sơn La 86 ha; Gia Lai 65 ha; Thừa Thiên - Huế 46 ha.

  Thuỷ sản

Sản lượng thủy sản chín tháng năm nay ước tính đạt 4337 nghìn tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 3226 nghìn tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 509 nghìn tấn, tăng 4,4%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng chín tháng ước đạt 2328 nghìn tấn, tăng 6,5% so cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 1731 nghìn tấn, tăng 6,2%; tôm đạt 390 nghìn tấn, tăng 4,5%. Mặc dù nuôi trồng cá tra những tháng gần đây gặp khó khăn cả về sản xuất và tiêu thụ nhưng sản lượng cá tra chín tháng của cả nước vẫn tăng so với cùng kỳ năm 2011, nguyên nhân chủ yếu là do ngay từ đầu năm, khi giá cá tra đang ở mức cao, nhiều địa phương đã mở rộng diện tích thả nuôi. Sản lượng cá tra chín tháng ước tính đạt 865 nghìn tấn, tăng 4,2%, trong đó một số địa phương có sản lượng tăng khá là: Đồng Tháp 282 nghìn tấn, tăng 17%; BếnTre 136 nghìn tấn, tăng 38%; Tiền Giang  26 nghìn tấn, tăng 35%. Một số địa phương có sản lượng cá tra giảm là: An Giang 186 nghìn tấn, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2011; Vĩnh Long 80 nghìn tấn, giảm 6%; Sóc Trăng 10 nghìn tấn, giảm 43%. Tại thời điểm hiện nay, diện tích nuôi cá tra đang bị thu hẹp. Tổng diện tích nuôi cá tra công nghiệp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 5200 ha, giảm 13% so với cùng kỳ 2011. Một số địa phương có diện tích nuôi cá tra giảm là: An Giang 927 ha, giảm 18%; Vĩnh Long 507 ha, giảm 4%; Trà Vinh 90 ha, giảm 35%; Sóc Trăng 125 ha, giảm 25,6%. Trong nuôi tôm, dịch bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy lan rộng trên các diện tích nuôi công nghiệp làm sản lượng thu hoạch tôm tại một số địa phương giảm như: Kiên Giang giảm 7% so với cùng kỳ 2011; Sóc Trăng giảm 14%; Bến Tre giảm 26%; Trà Vinh giảm 55%... Sản lượng tôm nuôi chín tháng năm nay ước tính chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,8% của sáu tháng đầu năm.

Sản lượng thủy sản khai thác chín tháng ước tính đạt 2009 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác biển đạt 1869 nghìn tấn, tăng 5,3%. Hiện nay, tàu thuyền tập trung chủ yếu vào khai thác có chọn lọc các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, nhằm bảo đảm duy trì nguồn lợi hải sản lâu dài. Sản lượng cá ngừ đại dương ở một số địa phương khai thác đạt khá là: Phú Yên 5160 tấn, tăng 13,8% so với cùng kỳ 2011; Bình Định 6785 tấn, tăng 52,6%.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Chín tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng khá cao kể từ đầu năm đến nay. Tính chung chín tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước[2], trong đó: Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,2%[3], đóng góp 3 điểm phần trăm; sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 12,8%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất chín tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 148,4%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 57,3%; sản xuất phụ tùng xe có động cơ tăng 44,5%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 22,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 15,4%; sản xuất đường tăng 14,6%; khai thác dầu thô tăng 13,4%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 11,3%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 11,1%. Các ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Sản xuất bia tăng 10,5%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 8,8%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 8,7%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 8,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,3%; sản xuất thiết bị dây dẫn điện các loại tăng 7,6%; sản xuất sợi tăng 7,5%.

Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất mỹ phẩm, xà phòng tăng 6,9%; sản xuất pin, ắc qui tăng 6,6%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 6,3%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 2,1%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 2,3%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 4,2%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét giảm 5,5%; khai thác than cứng giảm 6%; sản xuất xi măng giảm 7,2%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn và bao bì từ giấy giảm 8,1%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 12,4%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 13,1%; sản xuất xe có động cơ giảm 14,3%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 14,6%; khai thác đá, cát, sỏi, đất sét và cao lanh giảm 21,8%.

Một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn có chỉ số sản xuất công nghiệp chín tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước như sau: Bắc Ninh tăng 23,5%; Bình Dương tăng 7,9%; Đồng Nai tăng 6,9%; Đà Nẵng tăng 6,1%; Hải Phòng tăng 5,1%; Hà Nội tăng 4,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 4%; Cần Thơ tăng 4%; Hải Dương giảm 1,7%; Vĩnh Phúc giảm 4,7%.

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến tám tháng năm nay tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 58,5%; sản xuất đường tăng 42,8%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 34,5%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 15%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 14,5%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 11,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 9,2%; sản xuất bê tông và các sản phẩm khác từ xi măng, thạch cao tăng 8,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 7,8%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 6,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 5,9%; sản xuất thiết bị dẫn điện tăng 5,9%; sản xuất thuốc lá tăng 4,7%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 3,1%; sản xuất pin và ắc qui tăng 2,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 1,6%; sản xuất sợi giảm 4%; sản xuất giày, dép giảm 5,2%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 6,1%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 6,2%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 13,5%; sản xuất xi măng giảm 19,3%; sản xuất dây, cáp điện giảm 57,2%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/9/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,4% so với cùng thời điểm năm trước. Mặc dù mức tồn kho còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần trong mấy tháng gần đây[4]. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 50,6%; sản xuất xi măng tăng 50,2%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 40,6%; sản xuất thuốc lá tăng 40,3%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 39,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 37,8%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 34,7%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 30,9%; sản xuất pin và ắc qui tăng 27,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,6%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 25,7%; sản xuất bia tăng 15,3%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 14,3%; sản xuất giày, dép tăng 13,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,7%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 10,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 5,8%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 4,5%; sản xuất vải dệt thoi giảm 7,6%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 13,1%; sản xuất đường giảm 42,8%.

Mặc dù sản xuất công nghiệp tháng Chín có phần được cải thiện hơn so với tháng Tám nhưng chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng Chín so với tháng trước vẫn thấp, chỉ tăng 0,6%, trong đó: Chỉ số sử dụng lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,7%; sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 0,1%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 0,1% và ngành công nghiệp khai khoáng không biến động. Trong các loại hình doanh nghiệp công nghiệp, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,6%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số sử dụng lao động tháng Chín so với tháng Tám tăng cao hơn mức tăng chung là: Ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 1,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 1%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 0,8%.

Biến động lao động tháng Chín so với tháng Tám trong ngành công nghiệp của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Bắc Ninh tăng 2,9%; Đồng Nai tăng 1,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,8%; Bình Dương tăng 0,6%; Hải Dương tăng 0,4%; Hải Phòng tăng 0,2%; Cần Thơ tăng 0,2%; Bà Rịa -Vũng Tàu tăng 0,1%; Vĩnh Phúc giảm 2,7%; Đà Nẵng giảm 0,2%; Hà Nội giảm 0,2%.

Nhìn chung, sản xuất công nghiệp chín tháng năm nay của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tám tháng vẫn thấp, chỉ tăng 0,2 điểm phần trăm so với chỉ số tiêu thụ bảy tháng năm 2012. Chỉ số tồn kho sản phẩm công nghiệp chế biến tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao.

Hoạt động dịch vụ

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức hàng hóa bán lẻ chín tháng năm nay ước tính đạt 1713,1 nghìn tỷ đồng, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,7%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chín tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1322,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,2% tổng mức và tăng 16,5%; khách sạn nhà hàng đạt 201,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% và tăng 19,1%; dịch vụ đạt 170,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và tăng 20,3%; du lịch đạt 18,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 30,9%.

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách chín tháng năm 2012 ước tính đạt 2128,2 triệu lượt khách, tăng 12,1% và 91,9 tỷ lượt khách.km, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 32,3 triệu lượt khách, tăng 8,4% và 22,5 tỷ lượt khách.km, tăng 7,6%; vận tải địa phương đạt 2095,9 triệu lượt khách, tăng 12,5% và 69,4 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%. Vận tải hành khách đường bộ chín tháng ước tính đạt 1967,1 triệu lượt khách, tăng 13,2% và 67,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 136,5 triệu lượt khách, giảm 2,1% và 3 tỷ lượt khách.km, giảm 2,5%; đường hàng không đạt 10,7 triệu lượt khách, tăng 1,4% và 17,4 tỷ lượt khách.km, tăng 8,9%; đường sắt đạt 9,3 triệu lượt khách, tăng 2% và 3,4 tỷ lượt khách.km, tăng 0,6%; đường biển đạt 4,6 triệu lượt khách, giảm 0,3% và 259,1 triệu lượt khách.km, tăng 1,3%.

Vận tải hàng hóa chín tháng năm nay ước tính đạt 715,4 triệu tấn, tăng 9,2% và 137,1 tỷ tấn.km, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 686,1 triệu tấn, tăng 10,5% và 51,1 tỷ tấn.km, tăng 1,4%; vận tải ngoài nước đạt 29,3 triệu tấn, giảm 15,8% và 86 tỷ tấn.km, giảm 19,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ chín tháng đạt 561,4 triệu tấn, tăng 11,5% và 29,5 tỷ tấn.km, tăng 9,2%; đường sông đạt 114,9 triệu tấn, tăng 6% và 11,6 tỷ tấn.km, tăng 5,3%; đường biển đạt 33,8 triệu tấn, giảm 16% và 92,7 tỷ tấn.km, giảm 21%; đường sắt đạt 5,1 triệu tấn, giảm 5,5% và 3 tỷ tấn.km, giảm 4,3%.

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới chín tháng năm 2012 đạt trên 8,8 triệu thuê bao, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm 16,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 37,4% cùng kỳ và 8802,2 nghìn thuê bao di động, tăng 10,4%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 9/2012 ước tính đạt 135,9 triệu thuê bao, tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15 triệu thuê bao cố định, giảm 3,1% và 120,9 triệu thuê bao di động, tăng 5,2%.

Số thuê bao internet cả nước tính đến cuối tháng 9/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 13,9% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông chín tháng ước tính đạt 122,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2011.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta chín tháng ước tính đạt 4853,2 nghìn lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2877 nghìn lượt người, tăng 10,5%; đến vì công việc 852,4 nghìn lượt người, tăng 19%; thăm thân nhân đạt 853,5 nghìn lượt người, tăng 18,2%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 4059,6 nghìn lượt người, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2011; đến bằng đường biển 52,8 nghìn lượt người, tăng 84,2%; đến bằng đường bộ 740,7 nghìn lượt người, tăng 8,4%.

Trong chín tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 992 nghìn lượt người, tăng 1,3%; Hàn Quốc 526,5 nghìn lượt người, tăng 38,2%; Nhật Bản 428,1 nghìn lượt người, tăng 24,5%; Hoa Kỳ 338,8 nghìn lượt người, tăng 3%; Đài Loan 317,5 nghìn lượt người, tăng 19,4%; Ôx-trây-li-a 212,2 nghìn lượt người, tăng 0,8%; Ma-lai-xi-a 210,8 nghìn lượt người, tăng 25,4%; Pháp 169 nghìn lượt người, tăng 8,1%; Thái Lan 158,5 nghìn lượt người, tăng 23,4%.

ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

Xây dựng, đầu tư phát triển

Xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 488,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 75,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,5%; khu vực ngoài Nhà nước 396 nghìn tỷ đồng, chiếm 81%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 16,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,5%. Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng chia theo loại công trình như sau: Công trình nhà ở đạt 187,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2011; công trình nhà không để ở đạt 76,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,8%; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 160,9 nghìn tỷ đồng, tăng 11,4%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 63,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7%.

Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 159,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 24,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,2%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 129,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,4 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7%. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giá trị sản xuất xây dựng chín tháng tăng thấp là do thực hiện chính sách thắt chặt đầu tư công của Chính phủ, ngoài ra, lãi suất ngân hàng mặc dù đã điều chỉnh giảm nhưng việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp chưa được cải thiện nhiều dẫn đến tiến độ thi công các công trình bị ảnh hưởng.

Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện chín tháng năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt 708,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước và bằng 35,8% GDP,bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 263,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,2% tổng vốn và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 275 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,8% và tăng 11,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 170 nghìn tỷ đồng, chiếm 24% và tăng 1,6%.

 

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành 9 tháng năm 2012

 

Nghìn       tỷ đồng

Cơ cấu    (%)

So với cùng kỳ

năm trước (%)

TỔNG SỐ

708,6

100,0

108,6

Khu vực Nhà nước

263,6

37,2

110,4

Khu vực ngoài Nhà nước

275,0

38,8

111,8

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

170,0

24,0

101,6

Trong vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chín tháng ước tính đạt 142,2 nghìn tỷ đồng, bằng 68,5% kế hoạch năm và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 36,1 nghìn tỷ đồng, bằng 70,9% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 5485 tỷ đồng, bằng 73,5% và tăng 11,6%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 3286 tỷ đồng, bằng 68% và tăng 6,4%; Bộ Xây dựng 1220 tỷ đồng, bằng 67% và tăng 8,2%; Bộ Y tế 802 tỷ đồng, bằng 72,1% và tăng 7,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 678 tỷ đồng, bằng 72,9% và tăng 5,7%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 466 tỷ đồng, bằng 73,6% và tăng 5,6%; Bộ Công Thương 322 tỷ đồng, bằng 71,5% và tăng 8,2%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 106,1 nghìn tỷ đồng, bằng 67,7% kế hoạch năm và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 13797 tỷ đồng, bằng 57,9% kế hoạch năm và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2011; thành phố Hồ Chí Minh 10881 tỷ đồng, bằng 67,7% và tăng 9,9%; Đà Nẵng 6664 tỷ đồng, bằng 96,7% và tăng 26,5%; Quảng Ninh 2899 tỷ đồng, bằng 69,8% và giảm 3,6%; Thanh Hóa 2825 tỷ đồng, bằng 75,3% và tăng 6,4%; Bình Dương 2113 tỷ đồng, bằng 57,2% và tăng 1,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2099 tỷ đồng, bằng 55,5% và tăng 19,2%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2012 đạt 9526,4 triệu USD, bằng 72,1% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 775 dự án được cấp phép mới đạt 6108,4 triệu USD, bằng 82,6% số dự án và bằng 61% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 314 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 3418 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chín tháng năm 2012 ước tính đạt 8,1 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2011.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chín tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 6243,9 triệu USD, chiếm 65,5% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1806 triệu USD, chiếm 19%; các ngành còn lại đạt 1476,5 triệu USD, chiếm 15,5%.

Trong chín tháng, cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1480,5 triệu USD, chiếm 24,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 1042 triệu USD, chiếm 17,1%; Đồng Nai 610,6 triệu USD, chiếm 10%; Hà Nội 570,9 triệu USD, chiếm 9,3%; thành phố Hồ Chí Minh 415,2 triệu USD, chiếm 6,8%; Quảng Ninh 390,4 triệu USD, chiếm 6,4%; Ninh Bình 187,1 triệu USD, chiếm 3,1%; Khánh Hòa 180,3 triệu USD, chiếm 3%.

Trong số 47 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam chín tháng, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3722,9 triệu USD, chiếm 60,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 432,4 triệu USD, chiếm 7,1%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 431,8 triệu USD, chiếm 7,1%; Xin-ga-po 429,1 triệu USD, chiếm 7%; Síp 375,6 triệu USD, chiếm 6,1%; CHND Trung Hoa 141,6 triệu USD, chiếm 2,3%; Đài Loan 97,3 triệu USD, chiếm 1,6%.

Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2012 ước tính đạt 468,6 nghìn tỷ đồng, bằng 63,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa 299,1 nghìn tỷ đồng, bằng 60,5%; thu từ dầu thô 79,8 nghìn tỷ đồng, bằng 91,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 84,4 nghìn tỷ đồng, bằng 54,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 97,8 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 54,9 nghìn tỷ đồng, bằng 56,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 61,3 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1%; thuế thu nhập cá nhân 33,3 nghìn tỷ đồng, bằng 71,8%; thuế bảo vệ môi trường 8,7 nghìn tỷ đồng, bằng 66,2%; thu phí, lệ phí 6,2 nghìn tỷ đồng, bằng 68,8%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2012 ước tính đạt 606,3 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 118,5 nghìn tỷ đồng, bằng 65,8% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 114,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,6%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 417,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,4%; chi trả nợ và viện trợ 70,5 nghìn tỷ đồng, bằng 70,5%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Chín ước tính đạt 9,7 tỷ USD, giảm 5,9% so với tháng trước và tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung chín tháng năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 83,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 31,3 tỷ USD, giảm 0,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 52,5 tỷ USD, tăng 34,6%.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu chín tháng tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các mặt hàng chủ yếu như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may...

Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực chín tháng, một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 8,6 tỷ USD, tăng 120,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,4 tỷ USD, tăng 77,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,4 tỷ USD, tăng 39%; cà phê đạt 2,9 tỷ USD, tăng 29,5%. Một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch tăng khá là: Hàng dệt may đạt 11,3 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2011; dầu thô đạt 6,3 tỷ USD, tăng 14,7%; giày dép đạt 5,2 tỷ USD, tăng 12,9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,4 tỷ USD, tăng 19,7%. Riêng kim ngạch xuất khẩu gạo, cao su và than đá giảm so với cùng kỳ năm 2011, trong đó gạo đạt 2,9 tỷ USD, giảm 3,2%; cao su đạt 2,1 tỷ USD, giảm 9,9%; than đá đạt 888 triệu USD, giảm 27,1%.

Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu chín tháng năm nay có thay đổi so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 39% trong chín tháng năm 2011 lên 45,9% trong chín tháng năm 2012; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp giảm từ 37,8% xuống 32,9%; nhóm hàng nông sản và lâm sản giảm từ 17% xuống 15,9%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 6,2% xuống 5,3%.

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu của nước ta trong chín tháng năm nay, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường tiêu thụ lớn nhất với kim ngạch đạt 14,7 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là thị trường EU đạt 14,4 tỷ USD, tăng 23,5%; ASEAN đạt 12,4 tỷ USD, tăng 26,1%; Nhật Bản đạt 9,7 tỷ USD, tăng 28,8%; Trung Quốc đạt 9,4 tỷ USD, tăng 20,5%; Hàn Quốc 3,9 tỷ USD, tăng 11,5%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Chín ước tính đạt 9,8 tỷ USD, giảm 4,5% so với tháng trước và tăng 0,2 % so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 83,7 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,8 tỷ USD, giảm mạnh ở mức 8,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,9 tỷ USD, tăng 24,8%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu chín tháng năm nay tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước.

Trong chín tháng năm 2012, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện tử máy tính và linh kiện đạt 9,3 tỷ USD, tăng 80,9%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 3,5 tỷ USD, tăng 93,1%; tân dược đạt 1,3 tỷ USD, tăng 20,7%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 37,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng thấp so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 12,1 tỷ USD, tăng 4,8%; vải đạt 5,1 tỷ USD, tăng 1,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 3%; hóa chất đạt 2,1 tỷ USD, tăng 3,6%; sản phẩm hóa chất đạt 1,8 tỷ USD, tăng 3,3%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 1,1 tỷ USD, tăng 6,4%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 7,1 tỷ USD, giảm 8,5%; sắt thép đạt 4,5 tỷ USD, giảm 4,3%; kim loại thường đạt 1,9 tỷ USD, giảm 6,4%; phân bón đạt 1,1 tỷ USD, giảm 9%; sợi dệt đạt 1 tỷ USD, giảm 12,3%. Riêng ôtô là mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu nên giảm nhiều, đạt 1,5 tỷ USD, giảm 34,2% (trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 454 triệu USD, giảm 46,5%).

Cơ cấu hàng nhập khẩu chín tháng cũng có sự thay đổi so với cùng kỳ năm trước: Tỷ trọng nhóm máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng từ 30,5% trong chín tháng năm 2011 lên 35,2% trong chín tháng năm 2012; nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu giảm từ 62,5% xuống 58,8%; nhóm hàng tiêu dùng giảm từ 7% xuống 6%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu vào nước ta trong chín tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất với 20,7 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước; ASEAN đạt 15,3 tỷ USD, giảm 2,5%; Hàn Quốc đạt 11,3 tỷ USD, tăng 19,5%; Nhật Bản 8,7 tỷ USD, tăng 15,7%; EU đạt 6,9 tỷ USD, tăng 21,9%; Hoa Kỳ đạt 3,7 tỷ USD, tăng 11,8%.

Nhập siêu tháng Chín ước tính đạt 100 triệu USD, bằng 1% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Chín tháng năm 2012, xuất siêu ước tính 34 triệu USD. Trong chín tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa chủ yếu tập trung ở khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khu vực kinh tế trong nước tiếp tục nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy khu vực kinh tế trong nước vẫn còn gặp khó khăn trong sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2012 tăng 2,2% so với tháng trước. Đây là mức tăng cao nhất trong các tháng kể từ đầu năm sau sáu tháng CPI có xu hướng giảm dần. Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 17,02% (riêng dịch vụ y tế tăng 23,87%); nhóm giáo dục tăng 10,54% (riêng dịch vụ giáo dục tăng 12,16%). Chỉ số giá của các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn gồm: Giao thông tăng 3,83%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,18%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,46%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,33%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,14%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,08% (trong đó, lương thực tăng 0,35%; thực phẩm giảm 0,07%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,27%); bưu chính viễn thông tăng 0,01%.

Ảnh hưởng của việc tăng giá một số nhóm hàng đến mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín so với tháng trước như sau: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tác động làm CPI tăng 0,94%; nhóm giáo dục làm tăng 0,6%; nhóm giao thông làm tăng 0,34%, trong đó giá xăng dầu tháng Chín tăng 7,94% dẫn đến giá một số dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,82%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng làm tăng 0,22%. Trong mức tăng 2,2% của CPI tháng Chín so với tháng Tám, bốn nhóm hàng trên tác động làm CPI tăng 2,1%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2012 tăng 5,13% so với tháng 12/2011 và tăng 6,48% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân chín tháng năm 2012 tăng 9,96% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 9/2012 tăng 5,25% so với tháng trước; giảm 2,56% so với tháng 12/2011 và giảm 7,33% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2012 tăng 0,06% so với tháng trước; giảm 0,94% so với tháng 12/2011 và tăng 0,15% so với cùng kỳ

Chỉ số giá sản xuất  

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản chín tháng năm 2012 tăng 7,77% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 3,72% so với quý trước và giảm 3,73% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp chín tháng tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 0,9% so với quý trước và tăng 5,91% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất chín tháng tăng 10,72% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 0,17% so với quý trước và tăng 4,86% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá cước vận tải chín tháng tăng 14,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III tăng 0,87% so với quý trước và tăng 9,91% so với cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá chín tháng năm 2012 giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 3,25% so với quý trước và giảm 1,79% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá chín tháng tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 2,53% so với quý trước và giảm 4,08% so với cùng kỳ năm 2011.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Lao động, việc làm

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2012 cả nước ước tính 52,6 triệu người, tăng 1,2 triệu người so với lực lượng lao động tại thời điểm 1/7/2011, trong đó lao động nam chiếm 51,3%; lao động nữ chiếm 48,7%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động năm 2012 là 46,9 triệu người, tăng 0,4 triệu người, trong đó nam chiếm 53,3%; nữ chiếm 46,7%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế năm 2012 ước tính 51,7 triệu người, tăng 1,3 triệu người so với năm 2011, trong đó lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 24,9 triệu người, chiếm 48,2% tổng lao động và tăng 2,3% so với năm 2011; khu vực công nghiệp và xây dựng 10,7 triệu người, chiếm 20,7% và giảm 0,2%; khu vực dịch vụ 16,1 triệu người, chiếm 31,1% và tăng 5,3%. Phân bố lao động của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm 2011; ngành công nghiệp và xây dựng giảm 0,6 điểm phần trăm; ngành dịch vụ tăng 0,8 điểm phần trăm.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2012 là 2,17%, trong đó khu vực thành thị là 3,53%, khu vực nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2012 là 2,98%, trong đó khu vực thành thị là 1,83%, khu vực nông thôn là 3,49%.

Đời sống dân cư, bảo đảm an sinh xã hội

Trong chín tháng năm 2012, mặc dù sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội được Chính phủ quan tâm, chỉ đạo quyết liệt cùng sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương nên nhìn chung đời sống đại bộ phận dân cư tương đối ổn định. Theo báo cáo của các địa phương, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo chín tháng là 2863 tỷ đồng, bao gồm: 794 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 352 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 1717 tỷ đồng dành cho cứu đói, cứu trợ xã hội khác.

Tình trạng thiếu đói giáp hạt ở khu vực nông thôn đã có cải thiện rõ rệt. Trong tháng Chín cả nước có 14,9 nghìn hộ thiếu đói, chiếm 0,13% tổng số hộ nông nghiệp, giảm 21,8% so với cùng kỳ năm trước. Số nhân khẩu thiếu đói trong tháng là 68,1 nghìn người, chiếm 0,14% tổng số nhân khẩu nông nghiệp, giảm 23,9%. Tính chungchín tháng năm nay, cả nước có 401,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 30,7% so với cùng kỳ năm 2011; có 1696,2 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 30,1%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 21,6 nghìn tấn lương thực và 24,4 tỷ đồng.

Giáo dục, đào tạo

Theo báo cáo sơ bộ về kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm học 2011-2012, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 98,97%, tăng 3,25 điểm phần trăm so với năm học 2010-2011. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương năm nay đều cao hơn so với năm học trước, trong đó 36 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tốt nghiệp đạt trên 99%; 25 tỉnh, thành phố đạt trên 97%. Thái Bình là tỉnh dẫn đầu cả nước với tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,95%, tiếp đến là Ninh Bình 99,94%, Đắk Nông 99,91%; Hà Nam và Hưng Yên cùng đạt 99,86%. Cũng trong kỳ thi này, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bổ túc trung học cả nước đạt 85,47%, tăng 0,12 điểm phần trăm so với năm học trước. Các tỉnh, thành phố có tỷ lệ tốt nghiệp bổ túc trung học đạt trên 99% là: Tuyên Quang, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Dương,Hải Phòng, Bắc Giang.

Công tác đầu tư mở rộng hệ thống trường, lớp; xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo các tiêu chí trường chuẩn tiếp tục được triển khai tích cực tại các địa phương. Tính đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt 59/63 tỉnh, thành phố. Trong năm học 2011-2012, đã có thêm 402 trường mầm non, 445 trường tiểu học, 493 trường trung học cơ sở và 86 trường trung học phổ thông được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia cả nước lên 13084 trường, bao gồm: 2828 trường mầm non, chiếm 21,5% số trường mầm non; 7130 trường tiểu học chiếm 46,5% số trường tiểu học, trong đó 522 trường đạt chuẩn mức độ 2; 2748 trường trung học cơ sở, chiếm 26,8% số trường trung học cơ sở và 378 trường trung học phổ thông, chiếm 16,1% số trường trung học phổ thông.

Đề án kiên cố hóa trường học, lớp học và nhà công vụ giáo viên giai đoạn 2008-2012 tiếp tục được triển khai tại các tỉnh, thành phố. Tính đến hết năm 2011nguồn vốn đầu tư thực hiện đề án đạt 24,4 nghìn tỷ đồng, bằng 98% vốn kế hoạch cho cả giai đoạn, trong đó vốn trái phiếu Chính phủ giao cho các địa phương thực hiện 13,3 nghìn tỷ đồng; vốn bố trí từ ngân sách địa phương và huy động xã hội hóa là 9,5 nghìn tỷ đồng. Tính đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ phòng học kiên cố cả nước đạt khoảng 70%.

Tại thời điểm khai giảng năm học 2012-2013, cả nước có 19,2 triệu học sinh đến trường, bao gồm: 4,1 triệu trẻ em mầm non; 7,3 triệu học sinh tiểu học; gần 5 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,8 triệu học sinh trung học phổ thông.

Công tác đào tạo nghề được các cấp, các ngành và địa phương tập trung quan tâm đầu tư. Từ đầu năm, cả nước đã có thêm 12 trường cao đẳng nghề, 2 trường trung cấp nghề và 10 trung tâm dạy nghề. Nhìn chung, cơ sở dạy nghề thuộc loại hình công lập vẫn chiếm ưu thế so với loại hình tư thục. Tính đến cuối tháng 8/2012, cả nước có 148 trường cao đẳng nghề, 312 trường trung cấp nghề, 850 trung tâm dạy nghề và trên 1,3 nghìn cơ sở dạy nghề. Có 42 trung tâm dạy nghề được xây dựng tại các huyện nghèo theo NQ 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, số học sinh học nghề được tuyển mới từ đầu năm còn thấp, chỉ thu hút được 608 nghìn lượt người, bằng 32% kế hoạch năm, bao gồm: Cao đẳng nghề và trung cấp nghề có 126 nghìn lượt người, bằng 28%; sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 482 nghìn lượt người, bằng 33%.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong chín tháng năm 2012, cả nước có 51,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (42 trường hợp tử vong); 554 trường hợp mắc viêm não vi rút (15 trường hợp tử vong); 124 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (5 trường hợp tử vong); 440 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 93,1 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, trong đó 41 trường hợp đã tử vong.

Trong tháng Chín đã phát hiện thêm 714  trường hợp nhiễm HIV. Số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện tại các địa phương tính từ ca phát hiện đầu tiên đến giữa tháng 9/2012 là 259,4 nghìn trường hợp, trong đó 106,2 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 53,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm mặc dù được các ngành chức năng quan tâm thực hiện thường xuyên tại các địa phương, nhưng ý thức và trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh chưa cao cùng với sự hiểu biết của một số người dân còn hạn chế nên tình hình chưa được cải thiện nhiều. Tình trạng ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra tại một số địa phương gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Trong chín tháng năm nay, cả nước xảy ra 99 vụ ngộ độc thực phẩm làm 3,4 nghìn trường hợp bị ngộ độc, trong đó 20 người tử vong.

Hoạt động văn hóa, thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin chín tháng năm 2012 diễn ra sôi động với nhiều ý nghĩa thiết thực, chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc. Nhiều hoạt động và lễ hội phong phú được tổ chức tại các địa phương như: Giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch các tỉnh vùng biên giới Việt Nam - Lào tại Hà Tĩnh; Liên hoan Ca Múa Nhạc chuyên nghiệp toàn quốc 2012 Khu vực II tại Đắk Lắk; Những ngày văn hóa Tây Nguyên tại Hà Nội lần thứ II... Công tác bảo tồn các di sản văn hóa được duy trì thường xuyên, trong chín tháng đã thẩm định nhiều dự án tu bổ, tôn tạo di tích, đồng thời quy hoạch chi tiết, xây dựng, bảo tồn và phát huy giá trị các khu di tích khảo cổ học và các khu sinh thái của quốc gia. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và công tác tuyên truyền và phổ biến “Luật Phòng chống bạo lực gia đình” tiếp tục được đẩy mạnh trên cả nước.

Công tác thanh tra, kiểm tra văn hóa và xử lý vi phạm tại các địa phương tiếp tục được triển khai tích cực, trong đó thành phố Hồ Chí Minh phát hiện và xử lý 595 cơ sở vi phạm, phạt hành chính trên 9 tỷ đồng; Thanh Hóa phát hiện và xử lý 86 cơ sở vi phạm, phạt hành chính 89 triệu đồng.

Hoạt động thể dục thể thao quần chúng chín tháng năm nay diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, thu hút hàng nghìn người tham gia. Ngành Văn hóa Thể thao và du lịch đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức 23 giải thể thao quần chúng; mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho các huấn luyện viên và vận động viên; tổ chức Giải thể thao gia đình toàn quốc khu vực II và Hội khỏe Phù đổng toàn quốc lần thứ VIII. Tại Đại hội thể thao học sinh Đông Nam Á tổ chức tại Indonesia, đoàn thể thao học sinh Việt Nam đạt thành tích khá cao, xếp thứ 4 toàn đoàn với 27 huy chương vàng, 17 huy chương bạc và 16 huy chương đồng. Đoàn thể thao người khuyết tật tham gia Paralympic London 2012 với 11 vận động viên tham gia ở 3 môn thi đấu thể hiện sự nỗ lực rất lớn của các tuyển thủ.

Trong thể thao thành tích cao, tính đến tháng 8/2012 ngành Thể dục thể thao đã tổ chức 10 giải quốc gia. Tại các giải thi đấu quốc tế, đoàn vận động viên Việt Nam đã giành được 190 huy chương vàng, 161 huy chương bạc và 97 huy chương đồng.  Trong đó, tại Đại hội Thể thao bãi biển Châu Á lần thứ III tổ chức ở Trung Quốc, đoàn Việt Nam giành được 2 huy chương bạc môn cầu mây và 1 huy chương đồng môn bóng ném nữ, xếp thứ 10 trong số 45 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự giải. Tại Giải Olympic London 2012, Việt Nam có 18 vận động viên giành suất chính thức tham dự và toàn đoàn thể hiện quyết tâm cao trên đấu trường lớn của giải quốc tế. Đáng chú ý là đội tuyển bóng đá nữ nước ta giành chức vô địch  tại Giải AFF Cup tổ chức cuối tháng Chín. Bên cạnh đó, ngành Thể dục thể thao đã xây dựng kế hoạch và triệu tập 65 đội tuyển, đội tuyển trẻ các môn thể thao, trong đó có 13 chuyên gia, 242 huấn luyện viên và 1296 vận động viên tại các Trung tâm Huấn luyện thể thao quốc gia để chuẩn bị lực lượng cho SEA Games 27 năm 2013, ASIAD 17 năm 2014 và Olympic năm 2016.

Tai nạn giao thông

Trong tháng Chín, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 803 vụ tai nạn giao thông, làm chết 768 người và làm bị thương 494 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,1%, số người chết giảm 11,3% và số người bị thương giảm 30,1%. Tính chung chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7827 vụ tai nạn giao thông, làm chết 6896 người và làm bị thương 5596 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,7%, số người chết giảm 18,1% và số người bị thương giảm 26,7%. Bình quân 1 ngày trong chín tháng năm nay, cả nước xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người và làm bị thương 20 người.

Thiệt hại do thiên tai

Trong chín tháng năm 2012, thiên tai xảy ra liên tiếp gây thiệt hại nhiều về người và tài sản, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa phương trong cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 229 người chết và mất tích, 355 người bị thương; hơn 2,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 53,7 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; gần 38,7 nghìn ha lúa và 8,5 nghìn ha hoa màu bị mất trắng; 144,8 nghìn ha lúa và 29,6 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Nghệ An là địa phương bị thiệt hại nặng nhất với 12 người chết và mất tích; 6,8 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng; gần 19 nghìn ha lúa, hoa màu bị mất trắng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong chín tháng ước tính 3,2 nghìn tỷ đồng, trong đó Nghệ An thiệt hại khoảng 850 tỷ đồng, chiếm 27% tổng giá trị thiệt hại của cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong chín tháng năm 2012 là hơn 7,8 tỷ đồng. 

Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Tình hình cháy nổ vẫn diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước. Trong tháng Chín, cả nước đã xảy ra 166 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 30 người chết và bị thương, giá trị thiệt hại trên 23 tỷ đồng. 

Trong chín tháng đầu năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện 2,8 nghìn vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường tại 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó xử lý gần 2 nghìn vụ với số tiền phạt là 28,9 tỷ đồng. Riêng trong tháng Chín, các cơ quan chức năng phát hiện 549 vụ vi phạm vệ sinh môi trường, trong đó 267 vụ bị xử lý.

Khái quát lại, những khó khăn, thách thức của nền kinh tế nước ta trong chín tháng vừa qua đang từng bước được tháo gỡ. Sản xuất kinh doanh của một số ngành, lĩnh vực đã có dấu hiệu tích cực. Kinh tế vĩ mô nhìn chung ổn định. Tăng trưởng ở mức hợp lý. Lạm phát được kiềm chế trong nhiều tháng. Tồn kho sản phẩm hàng hóa có xu hướng giảm. Đầu tư công được theo dõi, giám sát chặt chẽ hơn. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các ngành, các cấp tập trung quan tâm. Tuy nhiên, thời gian tới tình hình kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp khi nhu cầu tiêu dùng và năng lực sản xuất của nhiều nền kinh tế lớn đang suy giảm. Ở trong nước, mục tiêu kiềm chế lạm phát gặp một số khó khăn do giá cả hàng hóa có nguy cơ tăng cao, nhất là vào thời điểm cuối năm khi nhu cầu hàng hóa cho sản xuất và tiêu dùng tăng. Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012, các ngành, các cấp cần tiếp tục nhiệm vụ quan trọng là ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và kiểm soát thị trường giá cả, tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:

Một là, công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp cần đặt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất của nền kinh tế lên trên hết để phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và hiệu quả, đồng thời luôn quan tâm đến lợi ích cộng đồng. Tránh để xảy ra tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các chính sách được ban hành gây khó khăn cho công tác chỉ đạo, điều hành vĩ mô cũng như gây phiền hà, cản trở doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.

Hai là, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Tiếp tục kiểm soát hợp lý luồng tiền, đặc biệt là tổng phương tiện thanh toán (M2) và thực hiện chính sách vốn vay ưu đãi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu và cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo để cùng Nhà nước tháo gỡ khó khăn; đồng thời tranh thủ hiệu quả các chính sách ưu đãi của Nhà nước trên cơ sở sử dụng kịp thời dòng vốn hỗ trợ để phát triển sản xuất.

Ba là, chủ động tìm hiểu nguyên nhân và thực hiện các giải pháp có tính khả thi nhằm giải quyết lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp hiện đang duy trì được sản xuất, kinh doanh.

Bốn là, để tạo sức hút và nhu cầu hàng hóa trên thị trường trong nước, cần tăng cường xúc tiến thương mại thông qua các chương trình triển lãm, hội chợ, đưa hàng về nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các khu công nghiệp. Đẩy mạnh sản xuất những sản phẩm phù hợp với từng thị trường nói trên về chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá cả.

Năm là, xây dựng kế hoạch sản xuất, lưu thông phân phối hàng hóa hợp lý nhằm bảo đảm nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống trong những tháng cuối năm. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả hàng hóa. Xử lý nghiêm những trường hợp đầu cơ, tích trữ gây hiện tượng khan hiếm hàng ảo, khiến giá cả tăng cao giả tạo.