Về hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng các thông tin từ báo cáo tài chính và các thông tin liên quan để thực hiện các chỉ tiêu phân tích để từ đó đánh giá chính xác sức khỏe tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự hạn chế về dữ liệu phân tích cũng như chưa có quy định bắt buộc về việc công bố các chỉ tiêu phân tích nên hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp của các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin còn tồn tại nhiều hạn chế. Bài viết này nghiên cứu một số hạn chế của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp, từ đó đề xuất một số kiến nghị đối với Nhà nước để hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp và nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp (DN) là việc sử dụng một cách có hệ thống các phương pháp phân tích để xem xét, đánh giá dữ liệu trên báo cáo tài chính của DN và các thông tin có liên quan, từ đó đưa ra những nhận định tình hình tài chính ở quá khứ, hiện tại và đưa ra những dự báo trong tương lai, phục vụ cho việc ra quyết định của các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin.
Đối với nhà quản trị DN, hoạt động phân tích tài chính giúp cung cấp các thông tin phục vụ cho việc ra các quyết định cơ bản về quản trị tài chính DN. Còn đối với các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin khác như:
- Đối với các cá nhân, tổ chức cho DN vay tiền như: ngân hàng, công ty tài chính, nhà cung cấp… quan tâm đến khả năng thanh toán, khả năng sinh lời để đánh giá khả năng trả nợ của DN, trước khi đưa ra quyết định cho vay, bán chịu sản phẩm cho DN.
- Đối với nhà đầu tư, mục đích khi phân tích tài chính DN là sự an toàn vốn đầu tư và khả năng sinh lời, thời gian hoàn vốn. Vì vậy, cần phân tích những thông tin về tài chính, tình hình hoạt động, kết quả hoạt động kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của công ty qua các thời kỳ để quyết định đầu tư vào đơn vị hay không, đầu tư vào thời điểm nào, dưới hình thức ngắn hạn hay dài hạn và đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực nào.
- Đối với các cơ quan chức năng như: cơ quan thuế, cơ quan thống kê… thông qua phân tích tài chính để xác định các khoản nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước, tổng hợp phân tích tình hình số liệu thống kê…
Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp
Các nhân tố chủ quan
Quan điểm và nhận thức của các nhà quản trị trong DN: Nếu các nhà quản trị DN coi nhẹ công tác phân tích tài chính thì công tác phân tích tại DN đó không thể có hiệu quả cao được. Theo đó, các nhà quản trị DN sẽ là người đề ra các chủ trương, quy chế, chính sách đối với công tác phân tích tài chính. Cũng chính các nhà quản trị trong DN là người sử dụng các kết quả của công tác phân tích tài chính. Do đó, nếu có một cơ chế hợp lý, một chính sách phù hợp thì khi đó phân tích tài chính mới thực sự đạt được mục đích đề ra.
Năng lực đội ngũ cán bộ phân tích: Đối tượng này có ảnh hưởng quan trọng nhất tới phân tích tài chính bởi họ chính là người trực tiếp tiến hành phân tích. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác của cán bộ phân tích quyết định đến phương pháp và nội dung phân tích tài chính, từ đó sẽ ảnh hưởng đến các kết luận rút ra qua việc phân tích. Ngoài ra việc này còn tác động tích cực tới quá trình thu thập và xử lý thông tin trước khi tiến hành các nội dung phân tích.
Quy mô và lĩnh vực kinh doanh của DN: Quy mô của DN được đo lường qua các chỉ tiêu về số lượng người lao động được đóng bảo hiểm xã hội, doanh thu hoặc nguồn vốn của DN. Quy mô càng lớn thì nhu cầu phân tích tài chính DN càng cao để phục vụ nhu cầu người quản trị và những đối tượng có liên quan như nhà đầu tư, nhà cho vay vốn… Bên cạnh đó, lĩnh vực kinh doanh của DN cũng sẽ ảnh hưởng đến phân tích tài chính tại DN. Theo đó, những ngành nghề kinh doanh khác nhau sẽ có những yêu cầu về phân tích tài chính DN khác nhau.
Hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật: Phân tích tài chính của DN sẽ đạt hiệu quả cao nếu DN kịp thời ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật như các hệ thống phần cứng và phần mềm kế toán chuyên dụng. Trong thời đại 4.0 ngày nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong lĩnh vực kế toán tài chính ngày càng được chú trọng và nâng cao, mang lại hiệu quả và tiết kiệm chi phí về thời gian và tài chính cùng với sự thuận tiện, chính xác cho DN.
Dữ liệu phân tích tài chính DN: Kết quả phân tích tài chính DN có chính xác hay không, phụ thuộc vào dữ liệu phân tích. Trong đó, đặc biệt chú trọng chất lượng của các báo cáo tài chính DN. Có thể thấy các báo cáo tài chính (BCTC) không phải lúc nào cũng mang tính chính xác và tin cậy cao. Có nhiều nguyên nhân làm giảm tính đúng đắn của các dữ liệu này như sai sót trong đánh giá của kiểm toán viên, gian lận của bản thân DN hoặc những bất cập của chế độ kế toán. Vì vậy cần đảm bảo chất lượng dữ liệu phân tích trước khi tiến hành phân tích tài chính DN.
Các nhân tố khách quan
Môi trường pháp lý: Phân tích tài chính DN chịu sự ảnh hưởng bởi các văn bản pháp luật của Nhà nước. Quy định hiện nay mới chỉ yêu cầu các DN nộp BCTC chứ chưa yêu cầu thực hiện phân tích tài chính. Mặt khác,các chỉ tiêu trong BCTC cũng tuân thủ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, khi môi trường pháp lý về BCTC thay đổi, sẽ làm thay đổi việc phân tích tài chính DN. Bên cạnh đó, đối với các DN thuộc tập đoàn kinh tế, công ty mẹ thì việc phân tích tài chính cũng bị ảnh hưởng bởi yêu cầu của tập đoàn hoặc công ty mẹ.
Ngoài ra, trong bối cảnh yêu cầu phát triển bền vững như hiện nay, để giảm thiểu sự tác động xấu đến môi trường từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN thì cần phải có những phép đo chính xác về sự xả thải, hướng dẫn tổ chức kế toán môi trường thống nhất, hợp lý để thông tin kế toán ứng dụng trong phân tích tài chính trở lên đáng tin cậy. Tuy nhiên, tại Việt Nam việc tổ chức kế toán môi trường tại các doanh nghiệp vẫn còn khá mới và tồn tại nhiều hạn chế, điều này tác động đến chất lượng thông tin phân tích.
Hệ thống chỉ tiêu tham chiếu: Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính sẽ so sánh đối chiếu để biết được vị thế của DN mình từ đó đánh giá thực trạng tài chính của DN cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
Môi trường quốc tế: Bao gồm các vấn đề về chính trị, kinh tế, diễn biến dịch bệnh trên thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược mở rộng địa bàn kinh doanh, cơ hội đầu tư, lựa chọn những yếu tố đầu vào của DN. Vì vậy, sẽ tác động trực tiếp đến nhu cầu và thực hiện phân tích tài chính tại DN.
Môi trường kinh doanh trong nước: Bao gồm các chính sách kinh tế liên quan đến ngành nghề kinh doanh của DN, nhu cầu của khách hàng khiến DN phải đổi mới công nghệ, đầu tư thêm tài sản, mở rộng thị trường. Ngoài ra là sự phát triển hoặc thua lỗ của đối thủ cạnh tranh cũng tác động đến nhu cầu phân tích tài chính tại DN.
Hạn chế về phân tích tài chính doanh nghiệp
Thứ nhất, hạn chế về tính thống nhất trong phân tích tài chính DN. Mặc dù cơ quan quản lý chức năng đã có những văn bản pháp lý quy định về hệ thống BCTC DN, công bố thông tin đối với các DN, nhưng cho đến nay chưa có văn bản pháp lý quy định có tính bắt buộc về nội dung phân tích tài chính DN. Do vậy, phân tích tài chính tại các DN nói chung chưa có sự thống nhất về tổ chức bộ máy, quy trình phân tích, dữ liệu, phương pháp, nội dung phân tích. Mặt khác, do cơ quan quản lý chức năng chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu tài chính trung bình ngành, làm cơ sở quan trọng để từng DN trong ngành có căn cứ để so sánh.
Thứ hai, hạn chế về dữ liệu phân tích. Dữ liệu phân tích tài chính hiện nay mới chỉ tập trung phân tích các thông tin trên BCTC, ít sử dụng các báo cáo quản trị, các thông tin kinh tế và định hướng của nhà nước trong phát triển ngành nghề kinh doanh vào phân tích tài chính tại DN.
Mặt khác, các thông tin trên BCTC còn hạn chế, nhiều DN không trình bày đầy đủ thông tin trên thuyết minh BCTC để có đủ cơ sở dữ liệu phục vụ phân tích.
Bên cạnh đó, trước yêu cầu về phát triển bền vững diễn ra rất quyết liệt trên thế giới và tại Việt Nam, các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin phân tích tài chính rất quan tâm đến sự phát triển bền vững của DN. Việc chưa yêu cầu tích hợp các thông tin về Báo cáo Môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trên BCTC sẽ khiến việc phân tích tài chính không đạt yêu cầu cho mục tiêu phân tích phát triển bền vững của DN.
Các thông tin về ESG bao gồm: Thông tin về môi trường (phát thải carbon, quản lý nước và chất thải, nguồn cung nguyên liệu thô, tác động từ biến đổi khí hậu); Thông tin về xã hội (sự đa dạng, công bằng và hòa nhập, quản lý lao động, an ninh và bảo mật dữ liệu, quan hệ cộng đồng của DN); Thông tin về quản trị (quản trị công ty, đạo đức kinh doanh, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các cam kết, chiến lược thực hiện ESG).
Tại Việt Nam, tháng 11/2020, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 96/2020/TT-BTC thay thế Thông tư số 155/2015/TT-BTC, trong đó tại mục 6 trong báo cáo thường niên, yêu cầu DN niêm yết trình bày các nội dung về Báo cáo tác động liên quan đến môi trường và xã hội của công ty như sau: Tác động lên môi trường; Quản lý nguồn nguyên vật liệu; Tiêu thụ nâng lượng; Tiêu thụ nước (mức tiêu thụ nước của các hoạt động kinh doanh trong năm); Tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường; Chính sách liên quan đến người lao động; Báo cáo liên quan đến trách nhiệm đối với cộng đồng địa phương; Báo cáo liên quan đến hoạt động thị trường vốn xanh theo hướng dẫn của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Đây được coi là bước đi quan trọng của Bộ Tài chính trong việc nâng cao trách nhiệm và nhận thức của DN trong lập và công bố thông tin ESG.
Tuy nhiên, quy định này mới đang chỉ yêu cầu DN niêm yết cung cấp các thông tin cơ bản về ESG, và khuyến khích các DN áp dụng việc cung cấp thông tin ESG theo chuẩn quốc tế, cho thấy việc hướng dẫn về lập và trình bày thông tin trên báo cáo phát triển bền vững còn rất sơ khai. Việc định lượng các thông tin trên còn thấp, chưa có sự so sánh giữa các thời kỳ phân tích, cũng như chưa gắn với các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính nên việc áp dụng để phân tích tài chính bền vững còn rất hạn chế.
Ngoài ra, để triển khai việc thực hiện đo lường, kiểm kê khí nhà kính (KNK), ngày 18/01/2022, Chính phủ ban hành Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg quy định danh mục lĩnh vực, cơ sở phải thực hiện kiểm kê KNK, theo đó có 1.912 cơ sở sẽ tham gia vào thị trường carbon trong nước. Ngày 15/11/2022, Thông tư số 17/2022/TT-BTNMT quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK và kiểm kê KNK lĩnh vực quản lý chất thải tiếp tục được ban hành nhằm tạo tiền đề để đạt được các mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực quản lý chất thải trong thời gian tới.
Với các văn bản quy phạm đã được ban hành, có thể thấy thị trường carbon trong nước đã dần được định hình rõ nét hơn và nhu cầu thông tin từ hoạt động môi trường sẽ ngày càng cần thiết cho hoạt động phân tích tài chính. Tuy nhiên, vì là giai đoạn mới triển khai nên việc đo lường, kiểm kê khí nhà kính và các thông tin khác liên quan sẽ bị hạn chế bởi phương pháp và chất lượng thực hiện.
Thứ ba, hạn chế về chỉ tiêu phân tích. Do mục đích phân tích tài chính DN chủ yếu phục vụ nhu cầu quản trị, không phải là yêu cầu bắt buộc cũng như chưa có quy định phải công khai các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính trên báo cáo tài chính, nên hệ thống chỉ tiêu phân tích được sử dụng không giống nhau giữa các DN, đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin phân tích tài chính sẽ phải tự thực hiện phân tích và phụ thuộc vào nguồn dữ liệu thu thập được để tính toán các chỉ tiêu phân tích, do vậy có thể có sự sai lệch về giá trị của các chỉ tiêu.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu phân tích được sử dụng để xếp hạng DN còn một số tồn tại, hạn chế, cụ thể:
Hiện nay, nhà nước đã áp dụng một số chỉ tiêu tài chính vào đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định số 87/2015/NĐ-CP với 5 tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước gồm: 1- Doanh thu; 2- Lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu; 3- Nợ phải trả quá hạn, khả năng thanh toán nợ đến hạn; 4- Chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại DN, pháp luật về thuế và các khoản thu nộp ngân sách khác, quy định về chế độ báo cáo tài chính và báo cáo để thực hiện giám sát tài chính; 5- Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Các chỉ tiêu này chưa phản ánh được đầy đủ tình hình tài chính của các DN như việc thu hồi công nợ, chi phí. Ngoài ra, chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ đến hạn hiện đang được hướng dẫn cụ thể tại điều 12, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả doanh nghiệp của Thông tư 200/2015/TT-BTC ngày 15/12/2015 theo công thức:
Chỉ tiêu này bản chất phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn tại DN bằng tài sản ngắn hạn, tức ngoài các khoản nợ đến hạn ra thì còn các khoản nợ ngắn hạn khác. Mặt khác, khi thanh toán các khoản nợ đến hạn thì DN sẽ sử dụng các khoản tiền và tương đương tiền để chi trả. Vì vậy sử dụng công thức trên chưa phản ánh đúng khả năng thanh toán nợ đến hạn của DN.
Thứ tư, hạn chế về nhận thức nhà quản trị và năng lực nhân sự phân tích. Các DN không có nhân viên chuyên trách mà nhân sự phân tích tài chính chủ yếu là do kế toán trưởng, kế toán tổng hợp hoặc trưởng phòng kế toán - kế hoạch của các DN đảm nhận, trong khi khối lượng công việc của những nhân sự này rất lớn nên quỹ thời gian dành cho phân tích rất hạn hẹp, đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả phân tích tài chính. Do vậy, phân tích tài chính chủ yếu chỉ thực hiện theo định kỳ hàng năm, đôi khi là xuất phát từ yêu cầu quản lý.
Bên cạnh đó, nhân sự phân tích tại DN chưa hiểu sâu về các phương pháp phân tích tài chính, mới chỉ thực hiện các phương pháp phân tích đơn giản như phương pháp so sánh và đồ thị. Các phương pháp phức tạp hơn như xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố và phân tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố, phương pháp dự báo chưa được sử dụng. Vì vậy, báo cáo phân tích mới chỉ phản ánh khái quát giá trị và sự biến động của các chỉ tiêu phân tích, mà chưa phân tích chuyên sâu và đưa ra những dự báo trong tương lai.
Ngoài ra, do DN chưa chú trọng đến hoạt động phân tích tài chính DN, việc phân tích chủ yếu phục vụ cho hoạt động giám sát và đáp ứng những thông tin cơ bản cho quản trị nên các chỉ tiêu phân tích sử dụng còn hạn chế.
Để hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay, Nhà nước đã quy định các BCTC mà DN phải nộp khi hết năm tài chính. Tuy nhiên, nội dung các báo cáo này đã có nhiều sự thay đổi trong thời gian qua để tiệm cận với kế toán quốc tế mà chưa có sự thay đổi để phục vụ mục đích quản trị của các nhà quản lý, cũng như cung cấp các thông tin tài chính phục vụ những đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin khác. Vì vậy, các cá nhân và tổ chức hiện nay khi phân tích tài chính đều phải tự phân tích số liệu và làm giảm tính minh bạch của thông tin được phân tích. Do đó, để hoàn thiện việc phân tích tài chính các DN, tác giả kiến nghị một số nội dung cụ thể về bổ sung các quy định về phân tích tài chính như sau:
Một là, hoàn thiện các nội dung trong báo cáo tài chính theo hướng tạo thuận lợi trong việc bóc tách dữ liệu để phân tích các chỉ tiêu tài chính. Để phân tích tài chính thì rất cần các thông tin trên BCTC, tuy nhiên hiện nay nhiều DN không khai báo chi tiết và đầy đủ các chỉ tiêu trên Thuyết minh BCTC, từ đó gây khó khăn trong việc phân tích các chỉ tiêu chuyên sâu. Vì vậy, nhà nước cần yêu cầu các DN phải khai báo chi tiết tất cả các chỉ tiêu trong tất cả các báo cáo tài chính, và có chế tài xử phạt nếu không khai báo.
Hai là, yêu cầu các DN thực hiện phân tích tài chính và đưa các chỉ tiêu phân tích tài chính vào bảng thuyết minh BCTC của DN. Trước mắt có thể yêu cầu các DN thực hiện phân tích khái quát BCTC. Thông qua việc tự phân tích các chỉ tiêu tài chính sẽ giúp thông tin phân tích có tính tin cậy hơn, bộ phận kế toán tài chính tại DN sẽ có sự tham mưu kịp thời, các nhà quản lý cũng sẽ thấy được những vấn đề của DN. Qua đó giúp các đoàn kiểm tra, kiểm toán DN đỡ vất vả trong việc phải phân tích dữ liệu vì các thông tin phân tích luôn có sẵn.
Ba là, sử dụng các chỉ tiêu tài chính vào xếp hạng DN.
Hiện nay, chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ đến hạn hiện đang được hướng dẫn cụ thể tại điều 12, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả DN của Thông tư số 200/2015/TT-BTC ngày 15/12/2015 theo công thức:
Chỉ tiêu này chưa phản ánh đúng khả năng thanh toán nợ đến hạn của DN. Do đó, tác giả kiến nghị việc áp dụng công thức để tính toán chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ đến hạn như sau:
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mang đến nhiều cơ hội kinh doanh cho các DN. Tuy nhiên, nó cũng mang lại nhiều thách thức trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chuyển đổi số, an toàn thông tin, khai thác cơ sở dữ liệu để hỗ trợ cho phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống. Từ đó tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN có thế mạnh về công nghệ thông tin và có yêu cầu công nghệ, chuyển đổi số phát triển.
Bốn là, yêu cầu các DN nhà nước báo cáo việc thực hiện trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường vào thuyết minh BCTC, để người đọc BCTC hiểu rõ hơn về tình hình phát triển bền vững của DN, các chỉ tiêu này cũng nên tiệm cận theo báo cáo ESG để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Nhà nước cũng nên có lộ trình để áp dụng báo cáo ESG vào thực tiễn các DN.
Năm là, nhà nước tổ chức các khóa học về phân tích báo cáo tài chính cho bộ phận tài chính kế toán, các chủ DN để nâng cao nhận thức, kỹ năng chuyên môn phân tích tài chính, đưa công cụ phân tích tài chính trở thành một trong những công cụ quản trị hiệu quả, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Bên cạnh đó, để hoạt động phân tích tài chính tại DN đạt hiệu quả cao, DN cần xây dựng quy định về việc thực hiện phân tích tài chính bao gồm việc yêu cầu phân tích tài chính khái quát và chuyên sâu theo định kỳ quý hoặc 6 tháng, 1 năm. Ngoài ra, cũng nên yêu cầu các DN phân công cho nhân sự làm công việc phân tích tài chính.
DN cần tổ chức các buổi tập huấn, đào tạo về phân tích tài chính DN, cũng như có bộ phận chuyên trách về tiếp nhận, kiểm tra BCTC của các DN. Bộ phận này ngoài việc tiếp nhận, phân tích, kiểm tra, phát hiện sai sót các BCTC, báo cáo phân tích tài chính thì sẽ làm công việc hỗ trợ, giải đáp về chuyên môn, nghiệp vụ cho các nhân sự thực hiện phân tích tài chính. DN cũng có thể tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm trong về kinh nghiệm phân tích tài chính để các DN có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm phân tích tài chính với nhau, cũng như rút ra những hạn chế để có hướng xử lý kịp thời, hiệu quả.
Mặt khác, nhà quản trị tại DN cần đưa ra những yêu cầu cụ thể về phân tích tài chính như sau: Các DN cần thực hiện lập BCTC theo đúng quy định của pháp luật, các thông tin trên BCTC cần phải diễn giải đầy đủ, đáng tin cậy. Có như vậy, kết quả phân tích tài chính tại DN mới đem lại hiệu quả cao.
Đồng thời, cần nâng cao nhận thức vai trò của công cụ phân tích tài chính DN, coi đây là một công cụ quan trọng để kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, phát hiện những sai sót, rủi ro để đưa ra những giải pháp khắc phục. Vì vậy, DN cần lập kế hoạch và thực hiện phân tích tài chính theo định kỳ, thiết lập quy trình phân tích hợp lý, lựa chọn phương pháp phân tích và áp dụng nội dung phân tích phù hợp.
Đối với nhân sự phân tích, cần lựa chọn những nhân sự có kiến thức về ngành nghề kinh doanh, bối cảnh kinh tế xã hội và chuyên môn tài chính kế toán. Ngoài ra, thường xuyên nâng cao trình độ của nhân sự phân tích thông qua các khóa đào tạo, hội thảo chuyên đề phù hợp.
Đối với phương pháp phân tích, không chỉ áp dụng các phương pháp giản đơn như so sánh mà cần áp dụng thêm các phương pháp khác như phương pháp phân tích nhân tố, dự báo để đánh giá sâu sắc hơn những nội dung phân tích.
Về nội dung phân tích, cần phân tích đầy đủ và toàn diện những chỉ tiêu phù hợp với đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đánh giá sự biến động của các chỉ tiêu qua các kỳ phân tích, so sánh với đối thủ cạnh tranh, với kế hoạch của DN. Qua đó, đề xuất những cảnh báo và khuyến nghị kịp thời với nhà quản trị để đưa ra phương án xử lý.
Ngoài ra, các DN cần phải hoàn thiện việc phân tích tài chính ở các nội dung chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt, các DN không hoặc đã thực hiện phân tích tài chính nhưng còn nhiều hạn chế có thể học hỏi thêm từ lý luận, học tập những kinh nghiệm phân tích tài chính của các DN đã thực hiện phân tích tài chính tốt trong nước và thế giới.
Tài liệu tham khảo:
- Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 về phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050;
- Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 về Phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/06/2022 về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam;
- Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 về phê duyệt chiên lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050;
- Bộ Tài chính (2020), Thông tư 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán;
- Bộ Tài chính (2015), Thông tư 200/2015/TT-BTC ngày 15/12/2015 hướng dẫn một số nội dung về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào DN, giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của DN nhà nước và DN có vốn nhà nước;
- Lê Thị Ánh (2022), Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại các DN thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế;
- Lê Thị Ánh (2023), Nâng cao hiệu quả phân tích tài chính bền vững DN thông qua tích hợp thông tin ESG, Tạp chí Tài chính.