Xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
(Tài chính) Việc xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh (TTCKPS) là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2011-2020 đã được Thủ tướng phê duyệt theo quyết định 252/2012/QĐ-TTg.
Mới đây nhất, ngày 11/3/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 366/QĐ-TTg phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam. Đây được xem là những bước đi đầu tiên trong việc xây dựng và phát triển TTCKPS tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cơ chế phòng vệ rủi ro.
Tuy nhiên, TTCKPS cũng được xem là một thị trường có hiệu ứng đòn bẩy tài chính cao, do đó việc xây dựng và phát triển thị trường này cũng hết sức nhạy cảm, phức tạp đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ phía cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự chuẩn bị sẵn sàng của các thành viên thị trường.
TTCKPS là gì?
TTCKPS là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh khác nhau. Chứng khoán phái sinh là những hợp đồng tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị hoặc mức độ sinh lời của một tài sản khác được gọi là tài sản tham chiếu hay tài sản cơ sở (underlying asset) [1]. Tài sản cơ sở bao gồm hàng hóa thông thường, cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất hoặc tỷ giá. Sản phẩm chứng khoán phái sinh bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau nhưng tập trung 4 nhóm sản phẩm chính: Hợp đồng kỳ hạn (Forwards); Hợp đồng tương lai (Futures); Hợp đồng quyền chọn (Options) và Hợp đồng hoán đổi (Swaps).
Hợp đồng kỳ hạn là sản phẩm chứng khoán phái sinh cơ bản nhất. Đây là hợp đồng thỏa thuận mua bán một loại tài sản nào đó với một mức giá xác định, thực hiện sau một kỳ hạn nhất định trong tương lai. Việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản cơ sở giữa người mua và người bán không thực hiện tại thời điểm ký hợp đồng mà được thực hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai. Các bên tham gia hợp đồng kỳ hạn có thể gặp gỡ trực tiếp để thương thảo các điều khoản trong hợp đồng như giá cả, kỳ hạn của hợp đồng. Khi hết hạn hợp đồng, bên bán và bên mua thanh toán trực tiếp cho nhau. Do đó, các bên tham gia hợp đồng có thể chịu rủi ro tín dụng của nhau nếu một bên mất khả năng thanh toán.
Hợp đồng tương lai về bản chất là một hợp đồng cam kết có kỳ hạn tương tự như hợp đồng kỳ hạn, là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán về một loại tài sản nào đó với số lượng nhất định, trong một mức giá nhất định tại một thời điểm trong tương lai. Hợp đồng tương lai được xem là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa vì các điều khoản, điều kiện trong hợp đồng được tạo ra và chuẩn hóa bởi Sở Giao Dịch Chứng khoán (SGDCK). Do đó, người mua và người bán gặp nhau thông qua SGDCK để thỏa thuận giá cả hoặc hợp đồng. Các bên không có quyền thương lượng về các điều khoản và điều kiện chuẩn của hợp đồng mà chỉ có quyền thỏa thuận giá cả.
Hợp đồng quyền chọn là một dạng hợp đồng giữa bên mua và bên bán, trong đó bên mua có quyền mà không có nghĩa vụ thực hiện quyền đã thỏa thuận. Có hai loại hợp đồng quyền chọn chính[2]:
Hợp đồng quyền chọn mua (call option) là hợp đồng mà bên mua có quyền (nhưng không có nghĩa vụ) mua tài sản cơ sở trong tương lai theo giá thỏa thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Hợp đồng quyền chọn bán (put option) là hợp đồng mà bên mua có quyền (nhưng không có nghĩa vụ) bán tài sản cơ sở trong tương lai theo giá thỏa thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Hợp đồng quyền chọn mua hạn chế rủi ro khi giá tài sản cơ sở tăng giá và hợp đồng quyền chọn bán hạn chế rủi ro khi giá tài sản cơ sở giảm giá. Vì vậy, hợp đồng quyền chọn được xem như một loại hợp đồng bảo hiểm mà người sở hữu có quyền sử dụng khi điều kiện thị trường biến động. Để có quyền này, người mua quyền phải trả phí cho người bán quyền và được gọi là phí mua quyền. Khoản phí này được thanh toán ngay khi hợp đồng có hiệu lực.
Hợp đồng hoán đổi là cam kết hợp đồng giữa hai bên trao đổi một chuỗi các dòng tiền trong tương lai. Thông thường một dòng tiền trao đổi được xác định trước trong khi dòng tiền kia phụ thuộc vào sự biến động của tài sản cơ sở trong tương lai (ví dụ hợp đồng hoán đổi lãi suất cố định với lãi suất thả nổi). Cũng có trường hợp cả hai dòng tiền đều phụ thuộc vào kết quả của tài sản cơ sở khác nhau trong tương lai (ví dụ hợp đồng hoán đổi cổ phiếu phụ thuộc vào hai tài sản cơ sở là lãi suất và giá cổ phiếu). Các tài sản cơ sở hoán đổi bao gồm lãi suất, tiền tệ, rủi ro tín dụng, cổ phiếu, hàng hóa cơ bản, bất động sản.[3]
Chứng khoán phái sinh là sản phẩm mới của thị trường tài chính trong những thập kỷ gần đây. Một trong những ứng dụng truyền thống của chứng khoán phái sinh là phòng hộ rủi ro (hedging). Các doanh nghiệp có các khoản vay theo lãi suất thả nổi có thể thực hiện hợp đồng hoán đổi lãi suất (Interest rate swap) để giảm thiểu rủi ro bằng cách hoán đổi lãi suất thả nổi thành lãi suất cố định. [4]
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của TTCKPS tại Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới còn nhờ vào một ứng dụng khác của công cụ này đó là “tổng hợp, gia công, chế biến rủi ro” vào các sản phẩm hiện có trong danh mục đầu tư để tạo thành một danh mục đầu tư mới có đặc điểm rủi ro – mức sinh lời khác với danh mục đầu tư gốc nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
Ví dụ, một nhà đầu tư có danh mục các trái phiếu có lãi suất thả nổi. Tuy nhiên, nhà đầu tư dự báo lãi suất thị trường sẽ biến động mạnh trong thời gian tới do đó muốn biến danh mục của mình thành một danh mục có lãi suất cố định. Cách đơn giản nhất là thực hiện hợp đồng hoán đổi lãi suất (IRS), nhà đầu tư sẽ trả lãi suất thả nổi và nhận lãi suất cố định.[5]
Xây dựng TTCKPS tại Việt Nam
Sau hơn 13 năm đi vào hoạt động và phát triển, TTCK Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định nhưng lại chưa có một thị trường phái sinh dựa trên các công cụ là chứng khoán để hỗ trợ nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro biến động giá. Trên thị trường mới chỉ có các công cụ đầu tư cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ.
Do đó, TTCK Việt Nam được đánh giá vẫn còn là một thị trường non trẻ so với khu vực và thế giới, thiếu các công cụ đầu tư đa dạng và còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Quyết định số 366/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển TTCKPS Việt Nam bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 11/3/2014 nhằm hoàn chỉnh cấu trúc thị trường chứng khoán, hỗ trợ sự phát triển bền vững các thị trường chứng khoán cơ sở, góp phần thúc đẩy sự phát triển và tăng cường vai trò của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đề án do Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện trong 03 giai đoạn: Giai đoạn từ năm 2013 - 2015: Xây dựng khung pháp lý, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật để vận hành TTCKPS; giai đoạn từ năm 2016 - 2020: Tổ chức giao dịch các chứng khoán phái sinh dựa trên tài sản cơ sở là chứng khoán (chỉ số chứng khoán, trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu) và giai đoạn sau năm 2020: Phát triển TTCKPS thống nhất dựa trên các tài sản cơ sở theo thông lệ quốc tế.
Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường, các chứng khoán phái sinh được phép giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán là các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán và trái phiếu Chính phủ. Hợp đồng tương lai dựa trên cổ phiếu, hợp đồng quyền chọn dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán, trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu sẽ được tổ chức giao dịch khi thị trường phát triển ổn định. Cũng theo Quyết định này, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam là tổ chức duy nhất thực hiện chức năng thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh theo mô hình đối tác trung tâm thông qua Trung tâm Thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh là đơn vị trực thuộc Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam.
Trên thực tế, dù TTCKPS chưa xuất hiện chính thức và chưa có quy định pháp lý hướng dẫn thực hiện, các loại chứng khoán phái sinh phi chính thức vẫn tự phát ra đời. Một số sản phẩm phái sinh chủ yếu là các Hợp đồng quyền chọn dựa trên cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường OTC mà Công ty chứng khoán (CTCK) là một bên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các giao dịch này không có số liệu thống kê cụ thể, chúng được thực hiện theo các hình thức khác nhau.
Trong đó, có một số trường hợp mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước(UBCKNN) đã có công văn yêu cầu ngừng triển khai vì chưa có khung pháp lý như việc công ty Vàng Thế Giới ra mắt một sản phẩm gần giống với Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, đầu tư vào chỉ số chứng khoán Việt Nam, hoặc việc CTCK VNDirect cung cấp sản phẩm “Hợp đồng hợp tác đầu tư” với những đặc điểm cơ bản của một Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu.
Như vậy, sự xuất hiện của các sản phẩm phái sinh trên thị trường phi tập trung đã khẳng định nhu cầu của nhà đầu tư đối với loại công cụ mới này. Tuy nhiên, các sản phẩm phái sinh còn mang tính tự phát, thiếu sự quản lý của nhà nước và mang tính rủi ro cao. Điều này đặt ra những yêu cầu cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển TTCKPS trong tương lai:
(1) Hành lang pháp lý hoàn thiện cho việc tạo lập và giao dịch
Nếu như hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán tại đa số các nước đều chỉ được xây dựng sau khi TTCK đã ra đời một cách tự phát thì với những thị trường phái sinh thành công, hầu hết các quốc gia đều lựa chọn phương án xây dựng một khuôn khổ luật pháp hoàn chỉnh về giao dịch chứng khoán phái sinh rồi mới thiết lập thị trường này. Như có thể thấy trong trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc, cơ quan quản lý thị trường tài chính đều có những bước chuẩn bị trong gần 10 năm, xây dựng các luật về giao dịch chứng khoán phái sinh, thậm chí dự kiến trước những hành vi vi phạm tiềm ẩn để có thể luật hóa các vấn đề về giám sát và xử lý những hành vi vi phạm trên thị trường trước khi thiết lập thị trường.
Khuôn khổ pháp lý về chứng khoán phái sinh phải bao gồm những quy định về thể chế, cấu trúc thị trường, tổ chức vận hành thị trường, thành viên tham gia thị trường, các sản phẩm được giao dịch trên thị trường, việc thanh toán và bù trừ, các thẩm quyền của cơ quan quản lý trong việc duy trì một thị trường trật tự, công bằng và minh bạch.
Khuôn khổ pháp lý này, cần quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan tới giao dịch chứng khoán phái sinh và cần có các ưu đãi nhất định ban đầu đối với những thành viên tham gia thị trường. Ví dụ, đối với các nhà tạo lập thị trường, khuôn khổ pháp lý cần đưa ra các ưu đãi về thuế và không giới hạn về vị thế giao dịch trên thị trường.
Ở Việt Nam, hiện nay UBCKNN đang xây dựng một Nghị định hướng dẫn riêng về tổ chức và giao dịch khoán phái sinh để trình Chính phủ ban hành. Nghị định là một văn bản dưới Luật và hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trên cơ sở Nghị định, SGDCK Việt Nam (theo mô hình định hướng) và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán sẽ xây dựng các quy chế hướng dẫn về giao dịch và thanh toán và bù trừ cho các khoán phái sinh gắn với các hoạt động nghiệp vụ của mình. UBCKNN cũng sẽ trình Bộ Tài chính để bổ sung các quy định về tổ chức, hoạt động của các đối tượng tham gia hành nghề kinh doanh chứng khoán phái sinh, quy định về thuế, phí trên TTCKPS, quy định về công bố thông tin, quy định về cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán phái sinh, quy định về thuế, phí trên TTCKPS… để bảo đảm một hành làng pháp lý tương đối đầy đủ giúp cho thị trường vận hành hiệu quả, ổn định.
(2) Cấu trúc thị trường phù hợp và cơ sở hạ tầng hiện đại nhằm đáp ứng tính phức tạp và thanh khoản của giao dịch phái sinh
Cấu trúc thị trường là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của thị trường phái sinh. Mọi TTCK đều có thể thành công cho dù các định chế hay nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ chi phối trên thị trường. Tuy nhiên, thị trường phái sinh dường như là sân chơi của các nhà đầu tư chuyên nghiệp và các nhà tạo lập thị trường. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy các nhà tạo thị trường là một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc của một thị trường phái sinh. Thị trường Mỹ, Anh, Úc đều có những ưu đãi đặc biệt cho các tổ chức và cá nhân đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường để đảm bảo tính lưu hoạt của TTCKPS.
Thị trường Singapore chỉ biết đến sự thành công sau 20 năm, khi đã đưa hệ thống giao dịch trực tuyến vào hoạt động và có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường. Thị trường Đài Loan, Hong Kong, Hàn Quốc đều chú trọng và dành một số ưu đãi về thuế và điều kiện giao dịch cho những định chế đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường để đảm bảo thị trường vận hành liên tục với tính thanh khoản cao. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng thị trường, đặc biệt là công nghệ thông tin hiện đại trong giao dịch và thanh toán bù trừ các giao dịch phái sinh là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự thành công của thị trường vì giao dịch công cụ phái sinh đòi hỏi các giao dịch phải được khớp liên tục, với tốc độ cao.
Tuy nhiên, thực trạng ở Việt Nam hiện nay cho thấy vai trò của nhà tạo lập thị trường còn khá mờ nhạt, ngay cả đối với thị trường cổ phiếu. Các giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh - HOSE gần như vắng bóng các nhà tạo lập thị trường. Mặc dù trong thời gian qua, các CTCK đã có sự phát triển nhanh về số lượng, hiện có khoảng 105 công ty tăng gấp 7,5 lần so với cuối năm 2005, nhưng hầu hết trong số này vẫn đang phải đối mặt với tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, đội ngũ nhân sự thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng, hoạt động môi giới và tự doanh chưa thực sự phát triển. Do vậy, các CTCK chưa thể đáp ứng được vai trò tạo lập thị trường. Thị trường OTC về cơ chế vận hành là một thị trường có sự tham gia của nhà tạo lập thị trường nhưng vai trò này gần như không thấy trên thị trường OTC Việt Nam.
Do vậy, để có thể phát triển TTCKPS Việt Nam trong tương lai, cần phải có các biện pháp khuyến khích và ưu đãi cho các CTCK trở thành nhà tạo lập thị trường như ưu đãi về thuế, phí, lệ phí; đặc quyền tham gia thị trường sơ cấp; hỗ trợ tư vấn, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật giao dịch và hệ thống thông tin. Bên cạnh đó, UBCKNN cần có chính sách khuyến khích các CTCK nước ngoài hợp tác với khối các CTCK trong nước cùng tham gia cung cấp dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam. Điều này có thể làm thay đổi diện mạo các dịch vụ chứng khoán hiện nay, khi mà nhiều dịch vụ quan trọng như tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành … có chất lượng thấp.
(3) Các công cụ cơ sở trên TTCK
Về mặt lý thuyết, có rất nhiều loại tài sản khác nhau ở Việt Nam có thể cho phép thực hiện giao dịch phái sinh. Với dân số khoảng 90 triệu người và 1 nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa thì các lựa chọn là rất rộng. Nhưng thực tế cho thấy, các tài sản cơ sở khác nhau được quản lý bởi các cơ quan chủ quản khác nhau. Phái sinh hàng hóa đặt dưới sự quản lý của Bộ Công Thương và đã được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005; Các giao dịch phái sinh tiền tệ được quy được bởi một văn bản riêng của NHNN, chưa có văn bản quy định thống nhất. Trong khi đó, lĩnh vực chứng khoán do Bộ Tài chính quản lý trực tiếp là UBCKNN.
Chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán… là cơ sở ban đầu cho hoạt động giao dịch. Các chứng khoán cơ sở phải đáp ứng được một số tiêu chí về tính thanh khoản, chất lượng của dòng thông tin về giao dịch tài sản cơ sở và các liên kết về công nghệ thông tin, thẩm quyền quản lý đối với tài sản cơ sở… Mặt khác, việc lựa chọn các sản phẩm phái sinh ban đầu đưa vào hoạt động cần được chuẩn hóa ngay từ đầu và đi từ mức độ thấp đến cao, phù hợp với năng lực quản lý, giám sát và mức độ chấp nhận rủi ro của thị trường. Theo kinh nghiệm của các thị trường phái sinh trong khu vực, các sản phẩm phái sinh dựa trên chỉ số (index duture; index option), phái sinh dựa trên trái phiếu (bond future) là sản phẩm giao dịch đầu tiên, sau đó phát triển lên các sinh dựa trên cổ phiếu (stock option, stock future) và về lâu dài cần thống nhất xây dựng một thị trường phái sinh cho tất cả các công cụ gốc là chứng khoán, vàng, lãi suất, hối đoái và hàng hóa.
Hiện nay, TTCK Việt Nam đã có hơn 700 cổ phiếu, 4 chứng chỉ quỹ và 507 loại trái phiếu. Đây chính là những công cụ cơ sở tiềm năng cho các hợp đồng phái sinh cổ phiếu và trái phiếu. Mặc dù vậy, chất lượng cũng như thanh khoản của các phần lớn các cổ phiếu, trái phiếu chưa cao. Ngoài ra, TTCK cũng đã có hai chỉ số chứng khoán là VN-Index và HNX-Index. Các chỉ số này được xây dựng trên cơ sở tính bình quân gia quyền với trọng số là tỷ trọng niêm yết của mỗi cổ phiếu trong danh mục. Tuy nhiên, để hai chỉ số này có thể phản ánh trung thực diễn biến của giá cổ phiếu trên thị trường, cần có sự điều chỉnh trong cách tính chỉ số.
Hiện nay, tỷ trọng niêm yết của mỗi cổ phiếu được tính trên cơ sở toàn bộ số lượng cổ phiếu được đưa vào niêm yết mà chưa loại trừ lượng cổ phiếu đưa vào niêm yết nhưng không được giao dịch do những quy định về hạn chế chuyển nhượng trong vòng 03 năm đối với thành viên HĐQT. Vì thế, các chỉ số này không hoàn toàn phản ánh diễn biến trung thực của TTCK vì nó bao gồm một khối lượng nhất định cổ phiếu không được giao dịch (trường hợp cổ phiếu SQC của Công ty cổ phần Khoáng sản Sài Gòn - Quy Nhơn gần đây là một ví dụ).
(4) Thành viên trung gian của TTCKPS
Thành viên tham gia thị trường phái sinh là ai? Tất cả các CTCK là thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) hiện nay, hay một phần trong tổng số các thành viên đó? Yêu cầu gì đối với các thành viên khi tham gia thị trường phái sinh khi số lượng thành viên bị hạn chế (vốn, công nghệ, kinh nghiệm, số lượng nhân viên…)? Các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác có được phép hoạt động như các trung gian trên thị trường phái sinh hay không?
Qua phân tích tình hình thực tiễn của các CTCK cho thấy, số lượng các CTCK hiện có trên TTCK Việt Nam là khá lớn (trên 100 công ty); trong đó đa phần là các công ty quy mô nhỏ và vừa. Theo số liệu mà UBCKNN tính toán năm 2012, 12 CTCK chiếm gần 50% thị phần môi giới, mỗi CTCK trong số 93 CTCK còn lại chỉ có thị phần là 1% hoặc thấp hơn. Do cơ chế thanh toán trên thị trường phái sinh sẽ là cơ chế sẽ thanh toán/sẽ chuyển giao (quá trình thanh toán/chuyển giao sẽ được thực hiện trong tương lai) thay vì cơ chế thanh toán trước/chuyển giao trước như hiện nay (quy định pháp lý hiện hành yêu cầu nhà đầu tư muốn mua chứng khoán phải có đủ tiền và muốn bán chứng khoán phải có đủ chứng khoán trên tài sản).
Vì vậy, khi tham gia thị trường phái sinh, các CTCK thành viên phải có trách nhiệm cao hơn trong việc đảm bảo các nghĩa vụ thanh toán, là người đứng sau các giao dịch của khách hàng. Điều này đòi hỏi phải tăng các yêu cầu về vốn và một số yêu cầu khác (ví dụ: công nghệ, kinh nghiệm…) so với các yêu cầu vốn trên TTCK cơ sở. Và với yêu cầu tăng vốn, không phải CTCK nào cũng đủ điều kiện cũng như sẽ lựa chọn tham gia thị trường.
Ở góc độ kinh doanh, chi phí cho việc tham gia vào thị trường phái sinh (ví dụ như làm thành viên của Đối tác trung tâm (CPP) và khoản tiền đặt cọc theo yêu cầu) có thể lớn hơn lợi nhuận lỳ vọng do thị phần của các công ty này là thấp. Trên cơ sở đó, chỉ một bộ khác của CTCK mà đáp ứng được các điều kiện của UBCKNN mới có thể làm tổ chức trung gian trên TTCK phái sinh. Về phía các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác, do các sản phẩm phái sinh được nhìn nhận là các loại “chứng khoán” theo Luật Chứng khoán nên vai trò trung gian trong chứng khoán có thể chỉ được thực hiện thông qua các CTCK.
(5) Đào tạo và phổ cập kiến thức cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp và cá nhân tham gia TTCKPS
TTCKPS chỉ có thể thành công nếu cơ quan quản lý thị trường tài chính có được sự chuẩn bị đầy đủ và hiệu quả, nhất là về mặt kiến thức và kinh nghiệm cho các thành viên thị trường. Đài Loan đã lựa chọn phương thức thiết lập một kênh để cộng đồng đầu tư và kinh doanh trong nước tiếp cận dần dần với các giao dịch phái sinh nước ngoài 3 năm trước khi thiết lập TTCKPS trong nước. Đây là một mô hình rất thiết thực bởi không có gì hiệu quả hơn việc để cho cộng đồng kinh doanh tự đào tạo mình thông qua thực tiễn kinh nghiệm giao dịch tại các thị trường nước ngoài.
Hàn Quốc lại lựa chọn phương án mở các khóa đào tạo bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho các nhân viên CTCK, quỹ đầu tư và mở các khóa phổ cập kiến thức về chứng khoán phái sinh cho công chúng đầu tư do SGDCK Hàn Quốc, Ủy ban Giám sát Tài chính (SFC) phối hợp với các CTCK, các quỹ đầu tư thực hiện. Việc đào tạo này sẽ giúp được đông đảo nhà đầu tư nhỏ lẻ tiếp cận được với kiến thức về giao dịch phái sinh.
Với định hướng thiết lập được một TTCK phái sinh tập trung, UBCKNN cùng với hai SGDCK và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đang triển khai xây dựng Đề án thiết lập TTCKPS; dự thảo Nghị định hướng dẫn về Tổ chức và hoạt động của TTCKPS. Đây sẽ là những tiền đề cơ bản cho việc xây dựng các bước cụ thể để có được một thị trường phái sinh trong thực tiễn.
Bên cạnh những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý, các thành viên trên thị trường cũng cần phối hợp tích cực với UBCKNN trong việc chuẩn bị hạ tầng cơ sở cho thị trường như chuẩn bị về hạ tầng cơ sở tại chính các CTCK thành viên, chuẩn bị nguồn lực có trình độ và am hiểu về chứng khoán phái sinh, có kế hoạch về xây dựng tài chính đủ mạnh khi tham gia thị trường mới. Đặc biệt là phối hợp cùng với UBCKNN để giáo dục, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về chứng khoán phái sinh tới đông đảo nhà đầu tư hiểu để tham gia.
Tài liệu tham khảo:
Bài viết có sử dụng lại số liệu và nhận định trong các bài viết sau:
1. TS. Nguyễn Sơn, “Xây dựng TTCKPS Việt Nam”, UBCKNN
2. Mạc Quang Huy, “Cầm nang ngân hàng đầu tư”, 7/2009, NXB Thống Kê
3. Tạp chí Ngân hàng, “Thị trường chứng khoán phái sinh: Kinh nghiệm quốc tế và các điều kiện phát triển ở Việt Nam”
4. Các website: vnexpress, stockplus...
[1] Don M. Chance & Robert Brooks, “Derivatives and Risk management”, 7th edn, 2007, p518
[2] Mạc Quang Huy, “Cầm nang ngân hàng đầu tư”, 7/2009, NXB Thống Kê, p.438
[3] Mạc Quang Huy, “Cầm nang ngân hàng đầu tư”, 7/2009, NXB Thống Kê, p. 434
[4] Mạc Quang Huy, “Cẩm nang Ngân hàng đầu tư”, 2009, NXB Thống Kê, p. 429
[5] Mạc Quang Huy, “Cầm nang ngân hàng đầu tư”, 7/2009, NXB Thống Kê, p.437