Xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2017
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Tám đạt 19.767 triệu USD (là tháng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất từ trước đến nay), cao hơn 1.567 triệu USD so với số ước tính tháng Tám, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 727 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 324 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 176 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 91 triệu USD; dầu thô cao hơn 72 triệu USD; sắt thép cao hơn 60 triệu USD; thủy sản cao hơn 41 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 36 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Chín ước tính đạt 19 tỷ USD, giảm 3,9% so với tháng trước nhưng tiếp tục tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 5,21 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,79 tỷ USD, giảm 3,3%.
Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm so với tháng trước: Gạo giảm 21,3%; giày dép giảm 21,1%; hạt tiêu giảm 16,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 11,4%; thủy sản giảm 10,8%; dệt, may giảm 10,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 9,1%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Chín tăng 23,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 22,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 24%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm 2016: Điện thoại và linh kiện tăng 47,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 32,3%; dệt may tăng 11,7%.
Tính chung 9 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 154 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 43,2 tỷ USD, tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 110,8 tỷ USD, tăng 21%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2016.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 31 tỷ USD, tăng 21,4%; dệt may đạt 19,3 tỷ USD, tăng 8,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 18,5 tỷ USD, tăng 40,8%; giày dép đạt 10,6 tỷ USD, tăng 12,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 9,3 tỷ USD, tăng 30,1%; thủy sản đạt 6 tỷ USD, tăng 19,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,5 tỷ USD, tăng 11%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 5,1 tỷ USD, tăng 15,8%; rau quả đạt 2,7 tỷ USD, tăng 45,6%; hạt điều đạt 2,6 tỷ USD, tăng 26,6% (lượng tăng 1,1%).
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Hạt tiêu đạt 981 triệu USD, giảm 18% (lượng tăng 25,1%); sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 726 triệu USD, giảm 3,1% (lượng tăng 4,5%); đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 414 triệu USD, giảm 43,3%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 9 tháng, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 31,2 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó xuất khẩu giày dép tăng 15,7%; dệt may tăng 8,1%. Tiếp đến là EU đạt 28,4 tỷ USD, tăng 15,8%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 24,2%; giày dép tăng 14,7%; điện thoại và linh kiện tăng 13,5%.
Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 21,9 tỷ USD, là thị trường có tốc độ tăng cao nhất với 44,7%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 88,5%; rau quả tăng 60%. Thị trường ASEAN đạt 16 tỷ USD, tăng 26,1%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 49,1%; điện thoại và linh kiện tăng 38,3%.
Thị trường Nhật Bản đạt 12,5 tỷ USD, tăng 17,2%; Hàn Quốc đạt 10,6 tỷ USD, tăng 27,3%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 40,5%; điện thoại và linh kiện tăng 36,6%; dệt may tăng 6,1%. Thị trường Thái Lan đạt 3,5 tỷ USD, tăng 28,7%, trong đó dầu thô tăng 217,5%; điện thoại và linh kiện tăng 55,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 22,6%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng năm nay, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 76,8 tỷ USD, tăng 24,3% và chiếm 49,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (tăng 1,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2016); nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 56,8 tỷ USD, tăng 14,8% và chiếm 36,8% (giảm 1,6 điểm phần trăm); nhóm hàng nông, lâm sản đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,9% và chiếm 9,4% (giảm 0,2 điểm phần trăm) và hàng thủy sản đạt 6 tỷ USD, tăng 19,2% và chiếm 3,9% (cơ cấu không đổi so với cùng kỳ năm 2016).
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Tám đạt 18.181 triệu USD, cao hơn 381 triệu USD so với số ước tính, trong đó: Điện tử máy tính và linh kiện cao hơn 165 triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 163 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 70 triệu USD.
Ước tính tháng Chín, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 18,6 tỷ USD, tăng 2,3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,25 tỷ USD, tăng 1,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,35 tỷ USD, tăng 2,7%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch tăng cao so với tháng trước: Điện thoại và linh kiện tăng 19,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 17,4%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm nhiều: Phân bón giảm 37,5%; than đá giảm 20,9%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 16,3%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Chín tăng 27,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 25,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 28,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện tăng 78%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 47,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 26,3%.
Tính chung 9 tháng năm 2017, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 154,5 tỷ USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 61,3 tỷ USD, tăng 18,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 93,2 tỷ USD, tăng 26,1%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 9 tháng tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2016.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 27 tỷ USD, tăng 32,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 25,8 tỷ USD, tăng 28,3%; điện thoại và linh kiện đạt 10,7 tỷ USD, tăng 41,3%; vải đạt 8,3 tỷ USD, tăng 8,7%; sắt thép đạt 6,8 tỷ USD, tăng 16,1% (lượng giảm 15,7%); chất dẻo đạt 5,4 tỷ USD, tăng 21,4% (lượng tăng 13,3%); xăng dầu đạt 5,1 tỷ USD, tăng 42% (lượng tăng 11,4%).
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Ô tô đạt 3,8 tỷ USD, giảm 12,4%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,5 tỷ USD, giảm 2,5%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 623 triệu USD, giảm 22,8%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 9 tháng năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 41,6 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 24,7%; điện thoại và linh kiện tăng 20,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 18,9%.
Tiếp theo là Hàn Quốc với 33,9 tỷ USD, tăng 46,5%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 113,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 45,9%. Nhập khẩu từ thị trường ASEAN đạt 20,6 tỷ USD, tăng 19,7%, trong đó xăng dầu tăng 27,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 12,9%. Nhật Bản đạt 11,8 tỷ USD, tăng 8,2%.
EU đạt 9,1 tỷ USD, tăng 13,3%, trong đó dược phẩm tăng 11,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 9,8%. Thái Lan đạt 7,5 tỷ USD, tăng 21,4%, trong đó nhập khẩu rau quả tăng 144,2%; xăng dầu tăng 47% (lượng tăng 19,4%); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 14,1%. Hoa Kỳ đạt 6,9 tỷ USD, tăng 16,3%, trong đó bông tăng 65,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35%.
Về cơ cấu hàng nhập khẩu 9 tháng năm nay, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 141,3 tỷ USD, tăng 23,6% so với cùng kỳ 2016 và chiếm 91,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2016), trong đó nhóm máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 66,8 tỷ USD, tăng 26,8% và chiếm 43,2% (tăng 1,3 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu đạt 74,5 tỷ USD, tăng 20,8% và chiếm 48,3% (giảm 0,9 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng đạt 13,2 tỷ USD, tăng 17,9% và chiếm 8,5% (giảm 0,4 điểm phần trăm).
Do kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh nên cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Tám xuất siêu 1.586 triệu USD. Tháng Chín ước tính xuất siêu 400 triệu USD, tính chung 9 tháng năm 2017 nhập siêu 442 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 18,08 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17,64 tỷ USD.
Đáng lưu ý là nhập siêu từ Hàn Quốc 9 tháng năm 2017 lên tới 23,3 tỷ USD, tăng 57,7% so với cùng kỳ 2016, là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam; tiếp đến là nhập siêu từ Trung Quốc với 19,7 tỷ USD, giảm 5,6%; nhập siêu từ ASEAN là 4,6 tỷ USD.
Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Xuất khẩu dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính đạt 9,74 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 6,58 tỷ USD, chiếm 67,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 7,3%; dịch vụ vận tải đạt 1,91 tỷ USD, chiếm 19,6% và tăng 6,4%.
Nhập khẩu dịch vụ 9 tháng ước tính đạt 12,55 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 5,97 tỷ USD, chiếm 47,5% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 0,9%; dịch vụ du lịch đạt 3,7 tỷ USD, chiếm 29,5% và tăng 10,4%. Nhập siêu dịch vụ 9 tháng là 2,81 tỷ USD, bằng 28,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.