Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ năm 2015
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười Một năm nay đạt 13.894 triệu USD, thấp hơn 406 triệu USD so với số ước tính, trong đó gạo thấp hơn 77 triệu USD; thủy sản và dầu thô cùng thấp hơn 49 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ thấp hơn 22 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 16 triệu USD; rau quả thấp hơn 15 triệu USD; hạt điều thấp hơn 12 triệu USD; cà phê thấp hơn 11 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,20 tỷ USD, tăng 2,2% so với tháng trước, do một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng như: Hàng dệt may tăng 17%; giày dép tăng 8,7%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 10,4%; dầu thô tăng 47%, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,1 tỷ USD, tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,1 tỷ USD, tăng 1,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai tăng 10,4%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 18,3%; khu vực kinh tế trong nước giảm 5,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 35,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 15,8%; đáng chú ý là một số mặt hàng nông sản tăng cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ: Hạt điều tăng 23% về lượng và tăng 32,4% về kim ngạch; hạt tiêu tăng 45% và tăng 67,1%; gạo tăng 146% và tăng 120,7%.
Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 162,4 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014 mức tăng thấp nhất trong 5 năm qua. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm nay giảm 3,8% nên loại trừ yếu tố giá, kim ngạch xuất khẩu năm nay tăng 12,4% (Năm 2014 chỉ số giá xuất khẩu tăng 0,79%, loại trừ yếu tố giá kim ngạch xuất khẩu tăng 12,9%). Kim ngạch xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt 115,1 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm trước, chiếm tỷ trọng 70,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, đóng góp 9,3 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng xuất khẩu chung. Nếu không kể dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 111,3 tỷ USD, tăng 18,5%. Khu vực trong nước ước tính đạt 47,3 tỷ USD, giảm 3,5% so với năm trước (sau 5 năm tăng trưởng liên tục), làm giảm 1,2 điểm phần trăm của mức tăng trưởng xuất khẩu năm 2015.
Kim ngạch một số mặt hàng chủ lực thuộc nhóm gia công, lắp ráp tăng cao so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 29,9%, điện tử máy tính và linh kiện tăng 38,2%; hàng dệt may tăng 8,2%; giày dép tăng 16,2%. Đóng góp chính vào mức tăng chung chủ yếu là nhóm hàng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng cao như: Điện thoại các loại và linh kiện chiếm 99,7%, điện tử máy tính và linh kiện chiếm 98,2%, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác chiếm 89,5%, giày dép chiếm 79,7%; hàng dệt may chiếm 60,4%. Ngược lại, các mặt hàng thuộc nhóm nông sản và khoáng sản giảm khá mạnh cả về lượng và giá trị như: Cà phê giảm 24,3% về lượng và giảm 27,8% về giá trị; chè giảm 6% và giảm 7%; dầu thô giảm 0,6% và giảm 47,3%; than đá giảm 76,1% và giảm 66,7%. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm 15,6% so với cùng kỳ. Riêng mặt hàng cao su mặc dù lượng xuất khẩu tăng 7,2% so với năm trước nhưng do giá trên thị trường thế giới giảm nên kim ngạch xuất khẩu giảm 13,6%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2015, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 74 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm 2014, chiếm 45,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 1,5 điểm phần trăm so với năm 2014), trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 30,6 tỷ USD, tăng 29,9% và chiếm 18,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (tăng 3,2 điểm phần trăm); nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 64,8 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 39,9% (tăng 0,6 điểm phẩn trăm); hàng nông, lâm sản ước đạt 17 tỷ USD, giảm 1% và chiếm 10,5% (giảm 1 điểm phần trăm); hàng thủy sản ước đạt 6,6 tỷ USD, giảm 15,6% và chiếm 4,1% (giảm 1,1 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu năm 2015, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 33,5 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2014 và chiếm tỷ trọng 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó kim ngạch một số mặt hàng chủ lực vào thị trường này tăng cao: Hàng dệt may tăng 11,7%; giày dép tăng 23,9%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 87,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35,1%. Tiếp theo là thị trường EU với 30,9 tỷ USD, tăng 10,7% và chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 17,7%; hàng dệt may tăng 3,7%; giày dép tăng 12,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 36,2%. Thị trường ASEAN ước tính đạt 18,3 tỷ USD, giảm 4,2%; trong đó: Điện thoại các loại và linh kiện giảm 11,6%; dầu thô giảm 23,3%; sắt thép giảm 16%. Thị trường Trung Quốc ước tính đạt 17 tỷ USD, tăng 13,7%, trong đó hàng rau quả tăng 179%; hàng dệt may tăng 41,5%; giày dép tăng 48%. Nhật Bản ước đạt 14,1 tỷ USD, giảm 4%, trong đó thủy sản giảm 14%; dầu thô giảm 58%. Hàn Quốc ước đạt 9 tỷ USD, tăng 25,2%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 348%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 94%.
Xuất khẩu năm 2015 đạt thấp hơn năm trước và thấp hơn kế hoạch đề ra (tăng 10%) chủ yếu do: (i) Chỉ số giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực giảm mạnh so với năm trước, bình quân chung giảm 3,8%, trong đó: Dầu thô giảm 53%, xăng dầu giảm 49,8%, cao su giảm 24,1%, sản phẩm cao su giảm 14%; than đá giảm 10%, gạo giảm 8,1%, cà phê giảm 6,4%, rau quả giảm 3,4%; thủy sản giảm 2,5%, quặng và khoáng sản khác giảm 2,4%...; (ii) Lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản giảm mạnh: Cà phê giảm 24,3%; hạt tiêu giảm 14,7%; chè giảm 6%.
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười Một năm nay đạt 13631 triệu USD, thấp hơn 869 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử máy tính và linh kiện thấp hơn 207 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác thấp hơn 204 triệu USD; phương tiện vận tải khác và phụ tùng thấp hơn 199 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 120 triệu USD; sắt thép thấp hơn 36 triệu USD; vải thấp hơn 30 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,50 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,5 tỷ USD, tăng 7,5%; khu vực trong nước đạt 6 tỷ USD, tăng 4,8%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 36,9%; máy móc, thiết bị và dụng cụ tăng 13,9%; chất dẻo tăng 9,2%; vải tăng 3,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai tăng 5,2%, trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,3%; khu vực kinh tế trong nước tăng 1%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ hoạt động sản xuất, gia công lắp giáp tăng so với cùng kỳ như: Sản phẩm chất dẻo tăng 21,1%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 9,1%; vải tăng 11,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 3,9%.
Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 165,6 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 98 tỷ USD, tăng 16,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,6 tỷ USD, tăng 6,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu giảm 5,8%), kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2015 tăng 18,9%, cao hơn mức tăng 13,2% của năm 2014 khi loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu năm 2014 giảm 1,02%). Giá nhập khẩu một số mặt hàng giảm mạnh so với năm trước: Xăng dầu giảm 40,4%; sắt thép giảm 15,6%; chất dẻo giảm 13%; phân bón giảm 14,1%.
Kim ngạch nhập khẩu trong năm của một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng cao so với năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 27,6 tỷ USD, tăng 23,1%; vải đạt 10,2 tỷ USD, tăng 8,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 5 tỷ USD, tăng 7,5%; bông đạt 1,6 tỷ USD, tăng 12,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn tăng so với năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,3 tỷ USD, tăng 24,2%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 10,6 tỷ USD, tăng 25,4%; ô tô đạt 6 tỷ USD, tăng 59%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 3 tỷ USD, tăng 87,7%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 151,2 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2014 và chiếm tới 91,3% tổng kim ngạch, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2014, trong đó nhóm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng đạt 67,5 tỷ USD, tăng 19,9% và chiếm 40,8%, tăng 2,7 điểm phần trăm (do một số nhóm hàng tăng mạnh như điện tử máy tính và linh kiện tăng 24,2%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 25,4%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng khác tăng 23,1%); nhóm nguyên nhiên vật liệu ước tính đạt 83,7 tỷ USD, tăng 6,8% và chiếm 50,5%, giảm 2,5 điểm phần trăm. Hàng tiêu dùng ước đạt 14,4 tỷ USD, tăng 10,4% và chiếm 8,7%, giảm 0,2 điểm phần trăm.
Về thị trường nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2015 với kim ngạch ước tính đạt 49,3 tỷ USD, tăng 12,9 % so với năm trước và chiếm 28,8% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 15,6%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 11,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 15,2%. Tiếp theo là Hàn Quốc với kim ngạch ước tính đạt 27,7 tỷ USD, tăng 27,4%; chiếm 16,7%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35%; máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 64,8%; điện thoại tăng 79,5%. Thị trường ASEAN ước tính đạt 23,8 tỷ USD, tăng 3,8% và chiếm 14,4%, trong đó xăng dầu tăng 5,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 16,7%. Nhật Bản ước tính đạt 14,4 tỷ USD, tăng 11,6%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 23,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 26,6%. EU ước tính đạt 10,3 tỷ USD, tăng 16,3%; trong đó máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 16,7%; dược phẩm 15,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 133,8%. Nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ ước tính đạt 8 tỷ USD, tăng 27%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 73,1%; máy móc thiết bị dụng cụ tăng 10,2%.
Tháng 11 xuất siêu 263 triệu USD (Số ước tính nhập siêu 200 triệu USD). Tháng 12 ước tính nhập siêu 300 triệu USD. Tính chung cả năm 2015 cán cân thương mại (xuất khẩu tính theo giá FOB, nhập khẩu tính theo giá CIF) rơi vào tình trạng thâm hụt với mức nhập siêu ước tính 3,2 tỷ USD (sau 3 năm liên tiếp xuất siêu). Ngoài hai đối tác lớn là Mỹ và EU vẫn giữ được mức xuất siêu tương ứng 25,5 tỷ USD và 20,6 tỷ USD, các thị trường lớn khác đang có xu hương gia tăng mức nhập siêu, trong đó nhập siêu từ Trung Quốc ước tính 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm trước; Hàn Quốc ước tính 18,7 tỷ USD, tăng 28%; ASEAN ước tính 5,5 tỷ USD, tăng 44,7%. Đáng chú ý là thị trường Nhật Bản sau nhiều năm xuất siêu, năm 2015 đã nhập siêu hơn 300 triệu USD. Nhập siêu năm 2015 hoàn toàn thuộc về khu vực kinh tế trong nước với mức nhập siêu của khu vực này là 20,3 tỷ USD, trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17,1 tỷ USD.
Với kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cùng tính theo giá FOB (Loại trừ 9 tỷ USD phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu được tính vào nhập khẩu dịch vụ) thì cân đối thương mại hàng hóa năm 2015 ước tính xuất siêu 5,8 tỷ USD, giảm 44% so với năm 2014.
Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Năm 2015 xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 11,2 tỷ USD, tăng 2,1% so với năm 2014, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch ước tính đạt 7,3 tỷ USD, chiếm 65% tổng kim ngạch và giảm 0,4% so với năm 2014.
Nhập khẩu dịch vụ năm nay ước tính đạt 15,5 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm trước, trong đó chủ yếu vẫn là nhập khẩu dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu với 9 tỷ USD, chiếm 58%.
Nhập siêu dịch vụ năm 2015 ước tính 4,3 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2014. Như vậy, cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ năm 2015 ước tính xuất siêu 1,5 tỷ USD, giảm 77% so với năm 2014, trong đó hàng hóa xuất siêu 5,8 tỷ USD, dịch vụ nhập siêu 4,3 tỷ USD.