Kiểm soát chặt chẽ nợ công - “Chìa khóa” tăng dư địa chính sách tài khóa

Hà Anh

Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, một trong những kết quả nổi bật của công tác quản lý nợ công thời gian qua là các chỉ tiêu an toàn nợ được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn Quốc hội phê chuẩn, giảm dần qua các năm, qua đó tăng dư địa chính sách tài khóa.

Dự kiến, đến cuối năm 2020, nợ công trong khoảng 56,8% GDP.
Dự kiến, đến cuối năm 2020, nợ công trong khoảng 56,8% GDP.

Chuyển biến tích cực trong quản lý nợ công

Đánh giá về công tác quản lý nợ công trong thời gian qua, ông Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, công tác quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong giai đoạn 2016 -2019 đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Những kết quả này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, thể hiện qua việc nhiều mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế đã hoàn thành vượt xa so với kế hoạch như: Quy mô nợ công giảm mạnh từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55% GDP cuối năm 2019; quy mô nợ Chính phủ cũng giảm mạnh từ 52,7% năm 2016, xuống 48% GDP vào cuối năm 2019, thấp hơn 6% so với mục tiêu đề ra là không quá 54%. Bên cạnh đó, các mục tiêu khác như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) đến năm 2019 cũng đã hoàn thành trong ngưỡng cho phép.

Dự kiến, đến cuối năm 2020, nợ công trong khoảng 56,8% GDP; nợ chính phủ trong khoảng 50,8% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN ước khoảng 24,1%; nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP; trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ khoảng 34,6%. Như vậy, về cơ bản, dự kiến các chỉ tiêu nợ so với GDP duy trì trong ngưỡng an toàn được Quốc hội phê chuẩn.

Đặc biệt, cơ cấu nợ đã có chuyển biến tích cực, dư nợ công giảm từ mức đỉnh 63,7% GDP năm 2016 xuống mức khoảng 55% GDP đến cuối 2019. Tốc độ tăng nợ công giảm trung bình từ 18,1%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống khoảng 6,8%/năm giai đoạn 2016-2019; tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 38,9% năm 2011 lên 60,1% năm 2016 và 61,9% tổng dư nợ của Chính phủ cuối năm 2019...

Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã huy động ước đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng (bình quân 260.000 tỷ đồng/năm) thông qua phát hành trái phiếu để đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi, chi trả nợ gốc của NSNN, đảm bảo trong phạm vi dự toán được Quốc hội phê duyệt hàng năm.

Ngoài ra, cũng trong 5 năm qua, tổng trị giá ký kết các khoản vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ ước khoảng 12,7 tỷ USD, trong đó giai đoạn 2016 đến tháng 9/2020 đã ký kết 112 hiệp định vay với tổng trị giá 11,9 tỷ USD.

Đáng chú ý, việc trả nợ các khoản vay của Chính phủ trong những năm qua thực hiện chặt chẽ và đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới cam kết với các nhà đầu tư.

Mới đây, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho hay: Mức bội chi năm 2020 ước tăng lên 5,59% GDP (tính theo GDP mới). Nợ công tăng lên 57,4% GDP, dưới trần Quốc hội cho phép (65%).

Duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu ngân sách trong ngưỡng an toàn

Bên cạnh những kết quả tích cực trong quản lý nợ công, một điểm nhấn quan trọng khác được người đứng đầu ngành Tài chính báo cáo với Quốc hội là chất lượng nợ công đảm bảo ngày càng tăng hơn so với giai đoạn 2013-2015.

Với nhiều nỗ lực cơ cấu lại danh mục, thời hạn danh mục trái phiếu chính phủ đã lên trên 8 năm (giai đoạn trước chỉ là 2,9 năm, phải vay đảo nợ thường xuyên). Đặc biệt, từ đầu năm 2020 đến nay, Bộ Tài chính đã điều hành vay hơn 200.000 tỷ đồng để trả nợ gốc và bám sát tiến độ giải ngân, thay vì vay theo kế hoạch.

Bên cạnh đó, cơ cấu kỳ hạn vay đã đạt được những kết quả tích cực. Theo đó, kỳ hạn vay trên 13 năm trong khi lãi suất chỉ 2,9% là mức thấp hơn cả lãi suất vay ưu đãi và không bị tác động bởi tỷ giá. Mức vay này cũng là điều kiện tốt để Việt Nam đàm phán vay quốc tế có lợi hơn.

Về mặt bằng lãi suất, từ năm 2016 đến nay, mặt bằng lãi suất phát hành đã giảm từ mức khoảng 6,5%-8%/năm đối với các kỳ hạn từ 5 năm đến 30 năm xuống còn khoảng từ 1,5%-3,5%/năm, trong đó kỳ hạn 10 năm đến 30 năm đang có lãi suất thấp nhất từ trước đến nay.

So với các nước trong khu vực và các nước có cùng bậc xếp hạng tín nhiệm, lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ của Việt Nam đang thấp hơn từ 1-2 điểm phần trăm…

Như vậy, có thể thấy, những yếu tố tích cực trên đã giúp duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu NSNN trong ngưỡng an toàn trong giai đoạn 2016-2020 và được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá tích cực khi phân tích về tính bền vững danh mục nợ nước ngoài của Việt Nam.

Cơ cấu nợ đã có chuyển biến tích cực, dư nợ công giảm từ mức đỉnh 63,7% GDP năm 2016 xuống mức khoảng 55% GDP đến cuối 2019; tốc độ tăng nợ công giảm trung bình từ 18,1%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống khoảng 6,8%/năm giai đoạn 2016-2019; tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 38,9% năm 2011 lên 60,1% năm 2016 và 61,9% tổng dư nợ của Chính phủ cuối năm 2019...