Cải cách quản lý hải quan theo hướng hiện đại

PV.

Quản lý hải quan hiện đại là mục tiêu quan trọng đã được ngành Hải quan nỗ lực triển khai từ nhiều năm nay. Đặc biệt là kể từ khi Nghị định số 08/2015/NĐ-CP về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan, đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phương thức hoạt động hải quan hiện đại được Chính phủ ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng.

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã thực hiện cải cách thủ tục hải quan, cắt giảm các chứng từ, giấy tờ không cần thiết; minh bạch thời gian thực hiện
Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã thực hiện cải cách thủ tục hải quan, cắt giảm các chứng từ, giấy tờ không cần thiết; minh bạch thời gian thực hiện

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phương thức hoạt động hải quan hiện đại theo nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong toàn bộ hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan; công tác kiểm tra sau thông quan được tăng cường; mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động nghiệp vụ; thông quan điện tử được triển khai tại tất cả các cục hải quan, chi cục hải quan; Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN đã bước đầu được triển khai tạo một bước ngoặt mới trong công tác hiện đại hóa hải quan.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp vụ hải quan được đẩy mạnh, mọi giao dịch, trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan và người khai hải quan được thực hiện thông qua hệ thống, như: nộp hồ sơ hải quan, hồ sơ hoàn thuế, trừ lùi giấy phép, việc gửi đề nghị lấy mẫu, đề nghị đưa hàng về bảo quản, đề nghị hủy tờ khai...

Sự thay đổi này góp phần giảm bớt sự tiếp xúc giữa công chức hải quan và doanh nghiệp trong việc giải quyết thủ tục hành chính, hạn chế các phiền hà, tiêu cực, sách nhiễu có thể xảy ra trong quá trình giải quyết thủ tục và giảm chi phí cho doanh nghiệp do không phải in hồ sơ giấy, không phải đi đến trụ sở cơ quan hải quan để nộp hồ sơ.

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã thực hiện cải cách thủ tục hải quan, cắt giảm các chứng từ, giấy tờ không cần thiết; minh bạch thời gian thực hiện. Theo đó, Nghị định đảm bảo được tính minh bạch hóa quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan, của tổ chức và cá nhân có liên quan; tính tự chịu trách nhiệm của người khai hải quan được nâng cao, trách nhiệm của công chức hải quan được cá thể hóa.

Đồng thời, có sự phân định rõ trách nhiệm giữa người khai hải quan và công chức hải quan, của cơ quan hải quan và các cơ quan có liên quan; tạo cơ chế khuyến khích tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, hạn chế tối đa việc tiếp xúc trực tiếp giữa công chức hải quan và người khai hải quan trong quá trình thông quan.

Cùng với đó, đảm bảo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính về hải quan tiếp tục được triển khai toàn diện, như đơn giản hóa bộ hồ sơ hải quan, các chứng từ không cần thiết như: hợp đồng, bảng kê chi tiết hàng hóa... đã bị bãi bỏ; các bước trong quy trình thủ tục hải quan được quy định rõ ràng, cụ thể theo hướng giảm thời gian kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa. Công tác khảo sát, đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý đã được tiến hành thường xuyên và đã có những phản hồi tích cực từ phía doanh nghiệp.

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP cũng đã quy định việc thông báo kết quả phân luồng sẽ được thực hiện ngay sau khi hệ thống tiếp nhận, kiểm tra thông tin khai của người khai hải quan (thời gian thực tế khoảng dưới 1 phút). Trên cơ sở đó người khai hải quan sẽ chủ động thực hiện tiếp các thủ tục để có thể thông quan hoặc giải phóng hàng trước hoặc ngay khi hàng hoá đến cảng, cửa khẩu. Trong trường hợp tại thời điểm hàng đến cửa khẩu, cơ quan Hải quan kiểm tra phát hiện có thông tin sai khác giữa nội dung khai của người khai với thông tin do cơ quan Hải quan thu thập được, như: thông tin trên manifest, thông tin về hàng hóa đến cửa khẩu... cơ quan Hải quan sẽ phân luồng lại tờ khai trước khi hàng qua khu vực giám sát hải quan và sẽ thông báo cho người khai hải quan biết.

Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định cụ thể trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi, địa điểm tại khâu cung cấp thông tin khi kiểm tra, giám đối với hàng hóa đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực giám sát hải quan thông qua Hệ thống cho cơ quan Hải quan (thông tin về lượng hàng, thời điểm hàng vào (get in), hàng ra (get out), vị trí lưu giữ và các thay đổi trong quá trình lưu giữ…);

Trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong việc cung cấp thông tin về tình trạng thông quan của các lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu và giám sát việc thực hiện của doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng; về phía người khai chỉ cần liên hệ với doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng để vận chuyển hàng hóa qua khu vực giám sát trên cơ sở thông tin về các lô hàng đủ điều kiện qua khu vực giám sát đã được cơ quan Hải quan cung cấp qua hệ thống và không cần tiếp xúc với công chức hải quan.

Nghị định đưa ra một số quy định trong công tác quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu, nhằm tiếp tục tăng cường năng lực cho cơ quan Hải quan trong công tác quản lý, cũng như tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện các hoạt động gia công, sản xuất xuất khẩu, doanh nghiệp chế xuất; có chế độ ưu tiên về quản lý đối với các doanh nghiệp có kết nối, trao đổi thông tin về tình hình nhập khẩu, sử dụng nguyên liệu, vật tư, đến khi sản xuất, xuất khẩu sản phẩm với cơ quan Hải quan, cơ quan Hải quan cũng đưa ra một số quy định mới

Ngoài những nội dung cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các khâu nghiệp vụ hải quan nêu trên, để nâng cao năng lực quản lý và có giải pháp kịp thời ngăn chặn việc lợi dụng các quy định của pháp luật để buôn lậu, gian lận thương mại, vi phạm pháp luật hải quan, các văn bản quy phạm pháp luật cũng đưa ra một số giải pháp tăng cường công tác quản lý hải quan.