Cận cảnh giao thương Việt Nam - Trung Quốc
(Tài chính) Tình hình căng thẳng ở Biển Đông đang khiến nhiều người lo ngại ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu kinh tế vĩ mô Việt Nam của ngân hàng HSBC cho cái nhìn cận cảnh hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và giao thương Việt - Trung.
FDI từ Trung Quốc khá nhỏ
Theo HSBC, trong tháng 5/2014, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng 2 con số dù có vài lúc bị suy giảm. Nhưng phần lớn các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được dẫn dắt bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Liệu sự cố căng thẳng về địa chính trị gần đây với Trung Quốc có ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu? Để trả lời câu hỏi này, HSBC đã có nghiên cứu sâu hơn về đầu tư, đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò lớn trong việc tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là khi khối đầu tư công và tư trong nước đang giảm. Điều này phần nào phản ánh quá trình cải cách đang diễn ra khi Chính phủ cố gắng giảm thiểu sự kém hiệu quả của đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh. Khối doanh nghiệp tư nhân cũng đang trong quá trình thoái nợ khiến cho nhu cầu đầu tư cũng yếu hơn.
Dòng vốn FDI vào Việt Nam đã giúp làm giảm các tác động tiêu cực lên quá trình tăng trưởng. Số vốn FDI vào Việt Nam khá lớn so với GDP, tỉ lệ đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư. Trong số vốn FDI đang có ở Việt Nam, đa phần đến từ các nhà đầu tư Nhật, Hàn Quốc, Mỹ và Đài Loan.
Tuy vốn FDI đăng ký từ Trung Quốc tăng lên trong những năm gần đây nhưng tổng vốn đầu tư từ Trung Quốc còn nhỏ. Vì thế mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đơn thuần là mối quan hệ chuỗi cung ứng cấp 1 hơn là mối quan hệ đầu tư. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Phần lớn hàng hóa nhập từ Trung Quốc dùng là nguyên liệu cho sản xuất dệt may như vải sợi, bông và máy móc. Tuy nhiên hàng tiêu thụ nhập khẩu từ Trung Quốc cũng khá lớn.
Vốn FDI vẫn vào Việt Nam, du lịch chịu ảnh hưởng trong ngắn hạn
HSBC cho rằng, tác động kinh tế ngắn hạn từ căng thẳng địa chính trị sẽ tương đối hạn chế nhưng với một số ngành như dịch vụ du lịch thì sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Du khách đến từ Trung Quốc hiện đang chậm lại.
Tuy nhiên, theo dự đoán, lượng du khách này sẽ trở lại con số bình thường trong những tháng tới. Tính từ đầu năm đến nay, tổng số khách Trung Quốc du lịch đến Việt Nam tăng 26,1%. “Chúng tôi dự đoán con số này sẽ giảm trong tháng 6 nhưng sẽ trở lại bình thường trong tháng 7”, HSBC cho biết.
Báo cáo Kinh tế vĩ mô Việt Nam cho thấy, hiện các nhà đầu tư chính vẫn không thay đổi và vốn FDI vẫn có xu hướng vào Việt Nam. Trong khi chưa thể đánh giá đầy đủ về sự tác động dài hạn, nhiều khả năng các nhà sản xuất tại Việt Nam sẽ cố gắng nội địa hóa nguyên liệu đầu vào để tăng cường quản lý chuỗi cung ứng của mình và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu từ Trung Quốc cũng như đáp ứng được yêu cầu của hiệp ước TPP.
Về hoạt động sản xuất tại Việt Nam, HSBC nhận định, các hoạt động sản xuất tiếp tục mở rộng tại Việt Nam dù có vài giai đoạn suy giảm. Trong vài tháng tới tăng trưởng sẽ chậm lại nhưng lĩnh vực này sẽ vẫn giữ được sự tăng trưởng và ngành sản xuất vẫn giữ được tính cạnh tranh. Các đơn hàng mới khá mạnh phản ảnh cả lực cầu cao từ nước ngoài cũng như nỗ lực của nhà sản xuất giữ giá thành thấp để kích cầu.
“Với lực cầu từ Mỹ được dự báo sẽ cải thiện trong quý 2 năm 2014, nhu cầu cho hàng hóa Việt Nam sẽ tăng trở lại”, HSBC phân tích.
Nỗ lực giảm phụ thuộc hàng hóa từ Trung Quốc
Xuất khẩu từ Việt Nam qua Trung Quốc, vốn chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Các nguyên vật liệu thô như cao su, dầu thô, than đá và trái cây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Là một đối tác xuất khẩu quan trọng, mối quan hệ giao thương giữa Việt Nam với Trung Quốc mạnh hơn ở chiều nhập khẩu bởi nhiều nguyên vật liệu sản xuất của Việt Nam được nhập từ Trung Quốc. Nguyên nhân là do Việt Nam sử dụng nhân công giá rẻ và đất đai màu mỡ là yếu tố cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
HSBC cũng nêu rằng, Việt Nam quan ngại về tỉ lệ ít nguyên liệu nội địa dùng cho sản xuất . Sự kiện gần đây cho thấy nhiều khả năng sẽ tác động đẩy nhanh tiến trình cải cách chính sách để gia tăng nội lực trong việc liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu.
HSBC cho rằng, các bước tiếp theo Việt Nam cần làm đó là tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa tự do thương mại quốc tế thông qua các hiệp ước như hiệp ước Giao thương tự do (FTA) Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Châu Âu và Châu Á Thái Bình Dương (TPP). Cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần, giảm sự thiếu hụt lao động lành nghề và tăng khả năng quản lý chuỗi cung ứng và liên kết với các công ty nước ngoài.
Mới đây, ngành dệt may và may mặc đặt chỉ tiêu đạt mức nội địa hóa 60% vào năm 2015. Chưa thể nói liệu mục tiêu này sẽ đạt được hay không. Tuy nhiên, nỗ lực này là cần thiết cho Việt Nam trong việc giảm sự phụ thuộc vào việc nhập nguyên liệu đầu vào; đáp ứng yêu cầu của TPP (Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược châu Á - Thái Bình Dương), đòi hỏi tỉ lệ nội địa hóa cao hơn cho các mặt hàng xuất khẩu.
Một dẫn chứng khác là Vinatex, một công ty quốc doanh, đã tuyên bố đặt mục tiêu xây dựng khu công nghiệp vải sợi trị giá 400 trăm triệu USD trong năm nay.
Theo HSBC, trong tháng 5/2014, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng 2 con số dù có vài lúc bị suy giảm. Nhưng phần lớn các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được dẫn dắt bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Liệu sự cố căng thẳng về địa chính trị gần đây với Trung Quốc có ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu? Để trả lời câu hỏi này, HSBC đã có nghiên cứu sâu hơn về đầu tư, đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò lớn trong việc tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là khi khối đầu tư công và tư trong nước đang giảm. Điều này phần nào phản ánh quá trình cải cách đang diễn ra khi Chính phủ cố gắng giảm thiểu sự kém hiệu quả của đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh. Khối doanh nghiệp tư nhân cũng đang trong quá trình thoái nợ khiến cho nhu cầu đầu tư cũng yếu hơn.
Dòng vốn FDI vào Việt Nam đã giúp làm giảm các tác động tiêu cực lên quá trình tăng trưởng. Số vốn FDI vào Việt Nam khá lớn so với GDP, tỉ lệ đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư. Trong số vốn FDI đang có ở Việt Nam, đa phần đến từ các nhà đầu tư Nhật, Hàn Quốc, Mỹ và Đài Loan.
Tuy vốn FDI đăng ký từ Trung Quốc tăng lên trong những năm gần đây nhưng tổng vốn đầu tư từ Trung Quốc còn nhỏ. Vì thế mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đơn thuần là mối quan hệ chuỗi cung ứng cấp 1 hơn là mối quan hệ đầu tư. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Phần lớn hàng hóa nhập từ Trung Quốc dùng là nguyên liệu cho sản xuất dệt may như vải sợi, bông và máy móc. Tuy nhiên hàng tiêu thụ nhập khẩu từ Trung Quốc cũng khá lớn.
Vốn FDI vẫn vào Việt Nam, du lịch chịu ảnh hưởng trong ngắn hạn
HSBC cho rằng, tác động kinh tế ngắn hạn từ căng thẳng địa chính trị sẽ tương đối hạn chế nhưng với một số ngành như dịch vụ du lịch thì sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Du khách đến từ Trung Quốc hiện đang chậm lại.
Tuy nhiên, theo dự đoán, lượng du khách này sẽ trở lại con số bình thường trong những tháng tới. Tính từ đầu năm đến nay, tổng số khách Trung Quốc du lịch đến Việt Nam tăng 26,1%. “Chúng tôi dự đoán con số này sẽ giảm trong tháng 6 nhưng sẽ trở lại bình thường trong tháng 7”, HSBC cho biết.
Báo cáo Kinh tế vĩ mô Việt Nam cho thấy, hiện các nhà đầu tư chính vẫn không thay đổi và vốn FDI vẫn có xu hướng vào Việt Nam. Trong khi chưa thể đánh giá đầy đủ về sự tác động dài hạn, nhiều khả năng các nhà sản xuất tại Việt Nam sẽ cố gắng nội địa hóa nguyên liệu đầu vào để tăng cường quản lý chuỗi cung ứng của mình và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu từ Trung Quốc cũng như đáp ứng được yêu cầu của hiệp ước TPP.
Về hoạt động sản xuất tại Việt Nam, HSBC nhận định, các hoạt động sản xuất tiếp tục mở rộng tại Việt Nam dù có vài giai đoạn suy giảm. Trong vài tháng tới tăng trưởng sẽ chậm lại nhưng lĩnh vực này sẽ vẫn giữ được sự tăng trưởng và ngành sản xuất vẫn giữ được tính cạnh tranh. Các đơn hàng mới khá mạnh phản ảnh cả lực cầu cao từ nước ngoài cũng như nỗ lực của nhà sản xuất giữ giá thành thấp để kích cầu.
“Với lực cầu từ Mỹ được dự báo sẽ cải thiện trong quý 2 năm 2014, nhu cầu cho hàng hóa Việt Nam sẽ tăng trở lại”, HSBC phân tích.
Nỗ lực giảm phụ thuộc hàng hóa từ Trung Quốc
Xuất khẩu từ Việt Nam qua Trung Quốc, vốn chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Các nguyên vật liệu thô như cao su, dầu thô, than đá và trái cây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Là một đối tác xuất khẩu quan trọng, mối quan hệ giao thương giữa Việt Nam với Trung Quốc mạnh hơn ở chiều nhập khẩu bởi nhiều nguyên vật liệu sản xuất của Việt Nam được nhập từ Trung Quốc. Nguyên nhân là do Việt Nam sử dụng nhân công giá rẻ và đất đai màu mỡ là yếu tố cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
HSBC cũng nêu rằng, Việt Nam quan ngại về tỉ lệ ít nguyên liệu nội địa dùng cho sản xuất . Sự kiện gần đây cho thấy nhiều khả năng sẽ tác động đẩy nhanh tiến trình cải cách chính sách để gia tăng nội lực trong việc liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu.
HSBC cho rằng, các bước tiếp theo Việt Nam cần làm đó là tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa tự do thương mại quốc tế thông qua các hiệp ước như hiệp ước Giao thương tự do (FTA) Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Châu Âu và Châu Á Thái Bình Dương (TPP). Cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần, giảm sự thiếu hụt lao động lành nghề và tăng khả năng quản lý chuỗi cung ứng và liên kết với các công ty nước ngoài.
Mới đây, ngành dệt may và may mặc đặt chỉ tiêu đạt mức nội địa hóa 60% vào năm 2015. Chưa thể nói liệu mục tiêu này sẽ đạt được hay không. Tuy nhiên, nỗ lực này là cần thiết cho Việt Nam trong việc giảm sự phụ thuộc vào việc nhập nguyên liệu đầu vào; đáp ứng yêu cầu của TPP (Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược châu Á - Thái Bình Dương), đòi hỏi tỉ lệ nội địa hóa cao hơn cho các mặt hàng xuất khẩu.
Một dẫn chứng khác là Vinatex, một công ty quốc doanh, đã tuyên bố đặt mục tiêu xây dựng khu công nghiệp vải sợi trị giá 400 trăm triệu USD trong năm nay.