“Cú hích” về tài chính cho công nghiệp hỗ trợ - Làm sao tận dụng được thời cơ "vàng"?
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế - Tài chính, ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội (HANSIBA) cho rằng, sự ra đời của Nghị định số 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về phát triển công nghiệp hỗ trợ, với hàng loạt ưu đãi đột phá là “liều thuốc” cần thiết tháo gỡ nhiều khó khăn mà lĩnh vực này đang gặp phải.

Phóng viên: Theo ông, trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) vẫn còn đối mặt với những khó khăn nào?
Ông Nguyễn Vân: Sau gần 40 năm Đổi mới, phải khẳng định rằng Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã rất thấu hiểu và quan tâm tới những khó khăn của khu vực kinh tế tư nhân. Những nỗ lực này đã tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng hơn. Tuy nhiên, thực tế cơ cấu của khối doanh nghiệp này cho thấy có đến 98% doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên còn rất thiếu và yếu về nguồn lực nội sinh.
Trong đó, rất nhiều doanh nghiệp đang loay hoay trong bài toán tiếp cận và đổi mới khoa học công nghệ, làm sao để nâng cao năng lực sản xuất cho tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Nhiều đơn vị có sản phẩm tốt nhưng lại chưa biết cách định hướng xuất khẩu, hoặc chưa đủ năng lực và thông tin để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hơn nữa, những khó khăn liên quan đến nguồn vốn, đất đai, hạ tầng sản xuất vẫn luôn là rào cản hữu hình, kìm hãm sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân.
Vấn đề trên của các doanh nghiệp cũng tương ứng với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, trong đó có các doanh nghiệp hội viên của HANSIBA. Ngoài ra, các doanh nghiệp CNHT còn phải đối mặt với những khó khăn mang tính đặc thù của ngành.
Đó là tình trạng máy móc, dây chuyền sản xuất còn thô sơ, chưa được hiện đại hóa đồng bộ. Quan trọng hơn là sự thiếu hụt lao động có trình độ tay nghề cao, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư giỏi, có khả năng nghiên cứu, thiết kế và vận hành các hệ thống phức tạp… từ đó kìm hãm khả năng sáng tạo và tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Ông Nguyễn Vân: Thách thức luôn đi cùng với cơ hội. Việc Việt Nam tham gia và ký kết hàng loạt Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã mở cánh cửa lớn ra thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp trong nước, cùng với vị thế là điểm đến đầu tư hấp dẫn của các tập đoàn đa quốc gia, đã tạo ra một thị trường CNHT tiềm năng ngay tại sân nhà.
Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp hội viên của HANSIBA không chỉ dừng lại ở việc cung ứng sản phẩm cho thị trường trong nước mà đã từng bước trở thành nhà cung ứng cấp 2, cấp 3 cho các tập đoàn FDI lớn, cung cấp các sản phẩm từ cơ khí, vật liệu tiêu hao đến quạt công nghiệp…
Phóng viên: Ông có nhắc đến những khó khăn về tài chính, thì với Nghị định số 205/2025/NĐ-CP sẽ có hiệu lực từ 1/9/2025 tới đây, ông đánh giá thế nào về khả năng khơi thông dòng vốn của Nghị định này so với các chính sách trước đây?
Ông Nguyễn Vân: Doanh nghiệp CNHT có đặc thù là đầu tư vào máy móc, nhà xưởng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lại kéo dài, trong khi lợi nhuận không quá cao. Chính vì vậy, việc tiếp cận tín dụng ngân hàng hay các quỹ đầu tư luôn là một thách thức. Nhiều chính sách ưu đãi trước đây dù rất tốt về mặt chủ trương nhưng khi đi vào thực tế lại gặp nhiều vướng mắc về thủ tục, tiêu chí, khiến doanh nghiệp khó lòng chạm tới.
Với sự ra đời của Nghị định số 205/2025/NĐ-CP, chúng tôi nhìn thấy đây chính là “liều thuốc” cho những khó khăn trên. Bởi Nghị định đã bổ sung quy định hỗ trợ tối đa 70% chi phí cho các hoạt động phát triển thị trường như đăng ký thương hiệu, tham gia triển lãm, tư vấn M&A và hợp tác; hỗ trợ 50% chi phí đầu tư máy móc thiết bị, 70% chi phí đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực vận hành…
Các doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn vốn từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, cùng các chương trình hỗ trợ công nghệ cao. Với nhóm dự án nghiên cứu và phát triển (R&D), cơ sở xây dựng trung tâm nghiên cứu được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của Luật Đất đai; đồng thời được hỗ trợ đầu tư trang thiết bị thông qua Chương trình phát triển CNHT…
Nghị định cũng mở rộng ưu đãi về môi trường, pháp lý và kiểm định chất lượng. Các khu CNHT cũng được áp dụng chính sách ưu đãi môi trường theo quy định hiện hành. Về chính sách đầu tư, các dự án sản xuất sản phẩm CNHT tiếp tục được hưởng các quyền lợi như ưu đãi thuê đất, thuê mặt nước, miễn - giảm thuế và các hình thức khuyến khích đầu tư khác theo pháp luật hiện hành…
Có thể thấy, đây chính là “cú hích” cho các hoạt động cốt lõi nhất của doanh nghiệp là nâng cấp công nghệ và mở rộng thị trường. Con số hỗ trợ 50 - 70% chi phí giống như một "vốn mồi", giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng chi phí ở giai đoạn đầu tư rủi ro nhất.
Khi doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước, họ sẽ tự tin hơn khi đàm phán với các ngân hàng để vay thêm vốn đối ứng. Đây chính là "kim chỉ Nam", biến những định hướng trong Nghị quyết số 68-NQ/TW thành những hành động cụ thể, thiết thực.

Phóng viên: Theo ông, các doanh nghiệp cần thêm những cơ chế nào từ phía cơ quan quản lý và các tổ chức tín dụng để dòng vốn ưu đãi thực sự chảy vào đúng đối tượng, đúng mục đích?
Ông Nguyễn Vân: Chính sách có tốt đến đâu mà không đến được với doanh nghiệp thì cũng chỉ là vô nghĩa. Các doanh nghiệp CNHT thường yếu về khả năng xây dựng hồ sơ, dự án đầu tư hấp dẫn và khả thi trên giấy tờ để trình lên các quỹ hay ngân hàng.
Vì vậy, tôi cho rằng, song song với việc thực thi Nghị định, cần có một chương trình hành động đồng bộ. Các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ… cần tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn sâu rộng, phổ biến chi tiết về các tiêu chí, quy trình để tiếp cận nguồn vốn, hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ.
Về phía các tổ chức tín dụng và các quỹ, cũng cần có sự thay đổi trong tư duy tiếp cận, cần chủ động hơn. Ví dụ, phối hợp với các hiệp hội ngành nghề như HANSIBA để tổ chức các buổi gặp gỡ, thẩm định sơ bộ, tư vấn trực tiếp cho các doanh nghiệp tiềm năng.
Các ngân hàng có thể xây dựng những gói tín dụng chuyên biệt cho ngành CNHT với các điều kiện thẩm định linh hoạt hơn, có tính đến đặc thù của ngành như vòng quay vốn chậm, tài sản thế chấp chủ yếu là máy móc chuyên dụng...
Chỉ khi đó, dòng vốn ưu đãi mới thực sự trở thành động lực, chảy vào đúng huyết mạch của nền kinh tế, thúc đẩy sự lớn mạnh của doanh nghiệp CNHT một cách thực chất. Nhưng điều quan trọng nữa là chính sách đã có thì việc chạy nhanh và xa đến đâu, phần lớn vẫn phụ thuộc vào nội lực và sự quyết tâm của chính mỗi doanh nghiệp.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ông!