Đề xuất bổ sung các trường hợp phải đăng ký, xin phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước

Anh Minh

Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước. Theo đó, dự thảo Nghị định bổ sung các trường hợp phải đăng ký, xin phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hiệu quả tích cực từ quản lý tài nguyên nước

Luật Tài nguyên nước được Quốc hội khóa XIII thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013. Để hướng dẫn thi hành Luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước.

Sau hơn 8 năm thực hiện Nghị định số 201/2013/NĐ-CP, đến nay, ý thức trách nhiệm trong khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước của các tổ chức, cá nhân được nâng cao; công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước tiếp tục được tăng cường hiệu lực, hiệu quả.

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nay, có khoảng hơn 24.000 công trình khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước đã được quản lý từ Trung ương đến địa phương thông qua biện pháp, công cụ cấp phép.

Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 1.787 giấy phép tài nguyên (113 giấy phép hành nghề khoan thăm dò khai thác nước dưới đất; 843 giấy phép khai thác sử dụng nước mặt, nước biển; 149 giấy phép thăm dò nước dưới đất; 277 giấy phép khai thác sử dụng nước dưới đất và 405 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước). Qua công tác thẩm định các dịch vụ công trong lĩnh vực tài nguyên nước, tính từ năm 2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thu gần 16 tỷ đồng nộp về ngân sách nhà nước.

Ở địa phương, theo số liệu báo cáo tại 54 tỉnh, thành phố đã cấp 23.794 Giấy phép tài nguyên nước cho các tổ chức và cá nhân (577 giấy phép hành nghề khoan thăm dò khai thác nước dưới đất; 1.890 giấy phép khai thác sử dụng nước mặt, nước biển; 1.968 giấy phép thăm dò nước dưới đất; 9.439 giấy phép khai thác sử dụng nước dưới đất và 9.920 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước).

Nhận diện những vướng mắc phát sinh

Bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện Nghị định số 201/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số vướng mắc, hạn chế trong việc cấp phép sử dụng, khai thác tài nguyên nước.

Theo đó, Nghị định số 201/2013/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể việc cấp phép khai thác nước mặt tại công trình hồ chứa, đập dâng, các công trình khai thác, sử dụng nước khác từ các hồ chứa, kênh dẫn… của hệ thống công trình thủy lợi dẫn đến vướng mắc trong quá trình quản lý, cấp phép và thanh tra kiểm tra ở địa phương.

Nghị định số 201/2013/NĐ-CP đã quy định các trường hợp phải tổ chức lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Tuy nhiên, thực tế triển khai nhiều địa phương, doanh nghiệp không xác định rõ thuộc trường hợp nào, do đó thực hiện chưa thống nhất (cụ thể: theo quy định các trường hợp phải lấy ý kiến là công trình khai thác sử dụng nước mặt với lưu lượng từ 10 m3/s thì thực tế triển khai đã có nhiều công trình là hồ chứa, thủy điện cũng áp dụng theo quy định trên, trong khi theo quy định phải áp dụng quy định về hồ, đập có dung tích từ 500 triệu m3 trở lên).

Qua thực tế triển khai cho thấy, việc lấy ý kiến cộng đồng cần phải áp dụng cho tất cả các công trình hồ đập thuộc quy mô phải cấp phép vì hầu hết các công trình hồ, đập xây dựng trên sông suối đều gây ra tác động và ảnh hưởng tới nguồn nước, môi trường... Chính vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh trường hợp lấy ý kiến cộng đồng đối với công trình hồ chứa, đập dâng (có bụng hồ).

Về chuyển nhượng quyền khai thác tài nguyên nước, Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định cụ thể điều kiện của tổ chức, cá nhân chuyển nhượng quyền khai thác tài nguyên nước là tính đến thời điểm chuyển nhượng, tổ chức, cá nhân chuyển nhượng đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa công trình khai thác vào hoạt động.

Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều chủ giấy phép thực hiện quy định này không đúng thời điểm, công trình đã được cấp giấy phép, nhưng chưa được hoàn thành công tác xây dựng cơ bản thì chủ giấy phép đã thực hiện chuyển nhượng dự án từ trước đó (theo pháp luật về dự án đầu tư) và tính đến khi thực hiện hồ sơ cấp lại thì việc chuyển nhượng đã được thực hiện trước đó.

Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định thành phần hồ sơ chuyển nhượng, tuy nhiên không có hướng dẫn cụ thể các mẫu của từng thành phần hồ sơ chuyển nhượng, vì vậy quá trình thẩm định hồ sơ chưa có cơ sở thực hiện việc thẩm định hồ sơ chuyển nhượng dẫn đến có nhiều địa phương và nhất là các tổ chức, cá nhân có văn bản đề nghị hướng dẫn mẫu hồ sơ.

Bổ sung các trường hợp phải đăng ký, xin phép khai thác tài nguyên nước

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, việc xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước để phù hợp với tình hình thực tiễn là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Tại dự thảo Nghị định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung khoản 2, khoản 3 Điều 16 về các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không phải đăng ký, không phải xin phép, gồm: Hồ chứa thủy lợi có dung tích toàn bộ không vượt quá 0,05 triệu m3, các trường hợp khai thác, sử dụng nước cho phòng cháy, chữa cháy, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm, dịch bệnh và các trường hợp khẩn cấp khác theo quy định của pháp pháp luật về tình trạng khẩn cấp quy định tại đ khoản 1 Điều 44 của Luật Tài nguyên nước.

Bổ sung mới Điều 16a sau Điều 16 về các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải đăng ký, phải xin phép, trong đó về đăng ký bổ sung quy định gồm khai thác, sử dụng nước mặt cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; cấp nước sinh hoạt nông thôn, không bao gồm mục đích sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…

Về các trường hợp phải cấp phép, bổ sung các trường hợp khai thác, sử dụng nước mặt trực tiếp từ hồ chứa thủy lợi, hồ chứa thủy điện, hệ thống kênh thủy lợi có cấp cho các mục đích kinh doanh (bao gồm cả hoạt động giết mổ), dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp bao gồm cả nước làm mát máy, thiết bị, tạo hơi, gia nhiệt; khai thác, sử dụng nước dưới đất không thuộc quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 44 Luật Tài nguyên nước và các trường hợp sử dụng công khai thác, sử dụng nước dưới đất để dự phòng.

Đồng thời, dự thảo Nghị định cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 17 quy định về khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất thuộc các vùng hạn chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Nghị định số 167/2018/NĐ-CP ngày 26/12/2018 của Chính phủ, ngoài ra bổ sung quy định trình tự, thủ tục đăng ký khai thác nước dưới đất.

Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 35 về trình tự, thủ tục cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, trong đó quy định tổ chức, cá nhân đề nghị cấp phép nộp một bộ hồ sơ trực tiếp, qua bưu điện hoặc qua dịch vụ công trực tuyến; sửa đổi, bổ sung giảm số ngày tiếp nhận, thẩm định hồ sơ đảm bảo phù hợp với Quyết định của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước...

Dự thảo Nghị định sửa đổi 22/49 điều, bổ sung 05 điều so với Nghị định số 201/2013/NĐ-CP, Điều 40 về tiền cấp quyền khai thác nước đã được bãi bỏ tại Nghị định số 82/2017/NĐ-CP và sửa đổi bổ sung khoản 2 Điều 2 của Nghị định số 41/2021/NĐ-CP ngày 30/3/2021 của Chính phủ quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 7 Nghị định số 136/2018/NĐ-CP ngày 5/10/2018 của Chính phủ sửa đổi một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường.