Đề xuất chỉ còn 8 ngành, nghề cấm đầu tư
(Tài chính) Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh, qua rà soát cho thấy hiện có 51 ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ cấm đầu tư, kinh doanh và Bộ đã đề xuất Danh mục chỉ còn 8 ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh.
Đó là nội dung được đưa ra tại cuộc họp Thường trực Chính phủ với các Bộ, ngành, thảo luận và cho ý kiến về rà soát, xây dựng Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh; Danh mục ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và Danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) sẽ trình Quốc hội vào kỳ họp tới.
Để chuẩn bị cho 2 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) trình Quốc hội thảo luận, thông qua tại kỳ họp tới, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát, xây dựng Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh; Danh mục ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện Báo cáo Thường trực Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi hoàn thiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa ra Quốc hội thảo luận, thông qua.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh, qua rà soát cho thấy hiện có 51 ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ cấm đầu tư, kinh doanh và Bộ đã đề xuất Danh mục chỉ còn 8 ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh.
Về Danh mục lĩnh vực, ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện, kết quả rà soát cho thấy toàn bộ ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh được quy định tại 391 văn bản pháp luật (gồm 56 Luật, 8 Pháp lệnh, 115 Nghị định, 176 Thông tư, 26 Quyết định của Bộ trưởng và 2 văn bản của Bộ) với 386 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc phạm vi quản lý nhà nước của 16 Bộ, ngành. Từ kết quả rà soát và đánh giá, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất bãi bỏ một số ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện không còn cần thiết; bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không rõ ràng, không cụ thể; chuyển một số điều kiện kinh doanh từ hình thức cấp Giấy phép sang áp dụng hình thức tự đăng ký thực hiện. Theo đó, kết quả rà soát sơ bộ cho thấy có khoảng 15% ngành, nghề kinh doanh có điều kiện có thể bãi bỏ (bãi bỏ 56/386 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện).
Tại cuộc họp, ý kiến của các Bộ, ngành, ý kiến của các thành viên Chính phủ và lãnh đạo Chính phủ đều nhất trí với đề xuất, kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sau kết quả rà soát, đánh giá. Các ý kiến tập trung phân tích và đề nghị các Bộ, ngành cần phối hợp đề tiếp tục rà soát, đảm bảo chất lượng của Danh mục đề xuất và tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn, vừa đảm bảo được quyền tự do đầu tư, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Mặt khác, quy định cũng phải đảm bảo sự linh hoạt cũng như lường định và xử lý được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống vốn hết sức phong phú, đa dạng và luôn vận động, phát triển.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành rà soát Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh; Danh mục ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và Danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và đề xuất dự thảo Danh mục mới theo các yêu cầu mà dự thảo Luật đã đề ra, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới.
Thủ tướng nhấn mạnh: Theo tinh thần của Hiến pháp và quy định về quyền tự do kinh doanh của người dân trong Hiến pháp, việc hạn chế quyền công dân phải được quy định cụ thể trong luật. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng nhằm thực hiện nguyên tắc doanh nghiệp, người dân được quyền tự do thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại cuộc họp, tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo các Danh mục đảm bảo chất lượng, khả thi để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội tại kỳ hợp tới. Việc xây dựng Danh mục và những quy định đặt ra phải nhằm đạt mục tiêu cao nhất là đảm bảo quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai, minh bạch, hạn chế sự tùy tiện, nhũng nhiễu và phòng chống tiêu cực, tham nhũng.
“Quản lý nhà nước không phải là giành thuận lợi cho chúng ta mà quản lý là để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn” - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói.
Trên tinh thần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các Bộ, ngành có trách nhiệm, khẩn trương, tiếp tục và chủ động rà soát các ngành, nghề đầu tư, kinh doanh bị hạn chế hoặc phải có điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực mình quản lý để bãi bỏ nếu đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn, không còn cần thiết cho mục tiêu quản lý nhà nước; hoặc bổ sung ngành, nghề đầu tư, kinh doanh vào Danh mục hạn chế hoặc phải có điều kiện kinh doanh nếu thấy nhất thiết phải quản lý. Mặt khác, phải tiếp tục rà soát Danh mục để giảm bớt các điều kiện không cần thiết hoặc chỉ công bố để hậu kiểm. Thủ tướng lưu ý việc rà soát để bãi bỏ hoặc bổ sung phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn cuộc sống; phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết hội nhập; bao quát và đảm bảo xử lý được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, những vấn đề mới, đòi hỏi mới mà cuộc sống đặt ra.
Về Danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhất trí với đề xuất không ưu đãi đầu tư đối với các ngành, nghề khai thác tài nguyên, khoáng sản và khoảng 40 ngành, nghề, sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dù các ngành, nghề này đầu tư ở địa bàn ưu đãi đầu tư; đồng thời chính sách ưu đãi về ngành, nghề, địa bàn đầu tư sẽ do Chính phủ quy định chi tiết.
Để chuẩn bị cho 2 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) trình Quốc hội thảo luận, thông qua tại kỳ họp tới, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát, xây dựng Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh; Danh mục ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện Báo cáo Thường trực Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi hoàn thiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa ra Quốc hội thảo luận, thông qua.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh, qua rà soát cho thấy hiện có 51 ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ cấm đầu tư, kinh doanh và Bộ đã đề xuất Danh mục chỉ còn 8 ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh.
Về Danh mục lĩnh vực, ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện, kết quả rà soát cho thấy toàn bộ ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh được quy định tại 391 văn bản pháp luật (gồm 56 Luật, 8 Pháp lệnh, 115 Nghị định, 176 Thông tư, 26 Quyết định của Bộ trưởng và 2 văn bản của Bộ) với 386 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc phạm vi quản lý nhà nước của 16 Bộ, ngành. Từ kết quả rà soát và đánh giá, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất bãi bỏ một số ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện không còn cần thiết; bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không rõ ràng, không cụ thể; chuyển một số điều kiện kinh doanh từ hình thức cấp Giấy phép sang áp dụng hình thức tự đăng ký thực hiện. Theo đó, kết quả rà soát sơ bộ cho thấy có khoảng 15% ngành, nghề kinh doanh có điều kiện có thể bãi bỏ (bãi bỏ 56/386 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện).
Tại cuộc họp, ý kiến của các Bộ, ngành, ý kiến của các thành viên Chính phủ và lãnh đạo Chính phủ đều nhất trí với đề xuất, kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sau kết quả rà soát, đánh giá. Các ý kiến tập trung phân tích và đề nghị các Bộ, ngành cần phối hợp đề tiếp tục rà soát, đảm bảo chất lượng của Danh mục đề xuất và tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn, vừa đảm bảo được quyền tự do đầu tư, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Mặt khác, quy định cũng phải đảm bảo sự linh hoạt cũng như lường định và xử lý được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống vốn hết sức phong phú, đa dạng và luôn vận động, phát triển.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành rà soát Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh; Danh mục ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và Danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và đề xuất dự thảo Danh mục mới theo các yêu cầu mà dự thảo Luật đã đề ra, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới.
Thủ tướng nhấn mạnh: Theo tinh thần của Hiến pháp và quy định về quyền tự do kinh doanh của người dân trong Hiến pháp, việc hạn chế quyền công dân phải được quy định cụ thể trong luật. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng nhằm thực hiện nguyên tắc doanh nghiệp, người dân được quyền tự do thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại cuộc họp, tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo các Danh mục đảm bảo chất lượng, khả thi để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội tại kỳ hợp tới. Việc xây dựng Danh mục và những quy định đặt ra phải nhằm đạt mục tiêu cao nhất là đảm bảo quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai, minh bạch, hạn chế sự tùy tiện, nhũng nhiễu và phòng chống tiêu cực, tham nhũng.
“Quản lý nhà nước không phải là giành thuận lợi cho chúng ta mà quản lý là để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn” - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói.
Trên tinh thần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các Bộ, ngành có trách nhiệm, khẩn trương, tiếp tục và chủ động rà soát các ngành, nghề đầu tư, kinh doanh bị hạn chế hoặc phải có điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực mình quản lý để bãi bỏ nếu đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn, không còn cần thiết cho mục tiêu quản lý nhà nước; hoặc bổ sung ngành, nghề đầu tư, kinh doanh vào Danh mục hạn chế hoặc phải có điều kiện kinh doanh nếu thấy nhất thiết phải quản lý. Mặt khác, phải tiếp tục rà soát Danh mục để giảm bớt các điều kiện không cần thiết hoặc chỉ công bố để hậu kiểm. Thủ tướng lưu ý việc rà soát để bãi bỏ hoặc bổ sung phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn cuộc sống; phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết hội nhập; bao quát và đảm bảo xử lý được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, những vấn đề mới, đòi hỏi mới mà cuộc sống đặt ra.
Về Danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhất trí với đề xuất không ưu đãi đầu tư đối với các ngành, nghề khai thác tài nguyên, khoáng sản và khoảng 40 ngành, nghề, sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dù các ngành, nghề này đầu tư ở địa bàn ưu đãi đầu tư; đồng thời chính sách ưu đãi về ngành, nghề, địa bàn đầu tư sẽ do Chính phủ quy định chi tiết.
- Về Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh, kết quả rà soát được
thực hiện theo các nguyên tắc loại bỏ các ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ
trùng lặp; chuyển một số, ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ cấm đầu tư,
kinh doanh thành ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện;
chuẩn xác lại phạm vi và nội dung cấm đầu tư, kinh doanh trong một số
ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ; và xác định ngành, nghề cấm đầu tư, kinh
doanh là ngành, nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng mà không thể khắc phục hay hạn chế
bằng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật hay chuyên môn.
Danh mục 8 ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh đề xuất, gồm: Kinh doanh vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; kinh doanh chất ma túy; sản xuất, kinh doanh, tàng trữ, tiêu dùng và xuất khẩu hóa chất Bảng 1; kinh doanh các loại pháo; kinh doanh, tổ chức mại dâm, buôn bán người; kinh doanh thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; thử nghiệm sinh sản vô tính trên người; và sản xuất các sản phẩm biến đổi gen.
- Về Danh mục lĩnh vực, ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện, qua rà soát cho thấy tổng cộng đối với 386 ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì có tới 895 điều kiện kinh doanh “cấp 1” (giấy phép “cha”); 2129 điều kiện “cấp 2” (giấy phép “con”) và 1745 điều kiện “cấp 3” (giấy phép “cháu”). Các điều kiện kinh doanh thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức, cụ thể: Có 110 ngành, nghề yêu cầu yêu cầu phải có giấy phép kinh doanh với 171 loại giấy phép kinh doanh; 83 ngành, nghề yêu cầu có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh với 62 loại giấy chứng nhận; 44 loại ngành, nghề cần có chứng chỉ hành nghề với 53 loại chứng chỉ hành nghề; 11 ngành, nghề yêu cầu xác nhận vốn pháp định; 345 ngành, nghề yêu cầu phải có chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo đánh giá thì Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh hiện hành chưa được xác định, tập hợp và công khai hóa; nhiều quy định về điều kiện kinh doanh đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn hoặc không cần thiết cho mục tiêu quản lý nhà nước, từ đó gây ra các rào cản ra nhập thị trường, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh; nhiều điều kiện kinh doanh không được quy định cụ thể và thiếu minh bạch về trình tự, hồ sơ, thủ tục hoặc điều kiện, thủ tục không rõ ràng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh đồng thời tạo ra sự tùy tiện, tiêu cực của cơ quan quản lý nhà nước.
Danh mục 8 ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh đề xuất, gồm: Kinh doanh vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự, công an; kinh doanh chất ma túy; sản xuất, kinh doanh, tàng trữ, tiêu dùng và xuất khẩu hóa chất Bảng 1; kinh doanh các loại pháo; kinh doanh, tổ chức mại dâm, buôn bán người; kinh doanh thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; thử nghiệm sinh sản vô tính trên người; và sản xuất các sản phẩm biến đổi gen.
- Về Danh mục lĩnh vực, ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện, qua rà soát cho thấy tổng cộng đối với 386 ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì có tới 895 điều kiện kinh doanh “cấp 1” (giấy phép “cha”); 2129 điều kiện “cấp 2” (giấy phép “con”) và 1745 điều kiện “cấp 3” (giấy phép “cháu”). Các điều kiện kinh doanh thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức, cụ thể: Có 110 ngành, nghề yêu cầu yêu cầu phải có giấy phép kinh doanh với 171 loại giấy phép kinh doanh; 83 ngành, nghề yêu cầu có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh với 62 loại giấy chứng nhận; 44 loại ngành, nghề cần có chứng chỉ hành nghề với 53 loại chứng chỉ hành nghề; 11 ngành, nghề yêu cầu xác nhận vốn pháp định; 345 ngành, nghề yêu cầu phải có chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo đánh giá thì Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh hiện hành chưa được xác định, tập hợp và công khai hóa; nhiều quy định về điều kiện kinh doanh đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn hoặc không cần thiết cho mục tiêu quản lý nhà nước, từ đó gây ra các rào cản ra nhập thị trường, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh; nhiều điều kiện kinh doanh không được quy định cụ thể và thiếu minh bạch về trình tự, hồ sơ, thủ tục hoặc điều kiện, thủ tục không rõ ràng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh đồng thời tạo ra sự tùy tiện, tiêu cực của cơ quan quản lý nhà nước.