Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ "ỳ ạch" cải tiến năng suất
Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chưa áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế hay những công cụ quản lý sản xuất thông dụng. Chỉ khoảng hơn 20% doanh nghiệp có chứng nhận ISO 9000 (quản lý chất lượng).
Những năm qua, ngành Công nghiệp hỗ trợ trong nước có nhiều khởi sắc cả về số lượng và chất lượng, chiếm khoảng 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo.
Công nghiệp hỗ trợ góp phần tăng cường sự liên kết trong chuỗi cung ứng của các ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như: dệt may, da giày, điện tử, nông nghiệp, thủy sản… với các thị trường lớn và khó tính như Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc…
Bên cạnh những bước tiến của ngành Công nghiệp hỗ trợ, vẫn còn nhiều thách thức về quy mô, kinh nghiệm, năng lực, thị phần, thương hiệu… đòi hỏi nỗ lực của nhiều bên để công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh mẽ hơn, thu hẹp khoảng cách giữa yêu cầu của ngành công nghiệp nội địa, cũng như của các đối tác, khách hàng đa quốc gia.
Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Cụ thể, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước còn đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp còn thấp, đơn cử như: ngành Điện tử chỉ từ 5 - 10%; ngành Ô tô từ 7 - 10%; ngành Dệt may, da giày từ 45 - 50%.
Xét theo chuỗi giá trị, tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động ở các phân khúc mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị khá thấp, chỉ có khoảng 19% doanh nghiệp dệt may da giày và 33% doanh nghiệp điện tử có thực hiện công đoạn thiết kế trong quá trình sản xuất.
Đáng chú ý, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chưa áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, hay những công cụ quản lý sản xuất thông dụng. Chỉ có khoảng hơn 20% doanh nghiệp có chứng nhận ISO 9000 (quản lý chất lượng), hơn 9% doanh nghiệp có chứng nhận ISO 14000 (quản lý môi trường).
Khoảng hơn 20% doanh nghiệp cho biết có thực hiện 5S tại doanh nghiệp; trong khi các công cụ khác như Lean, 6 sigma, TQM, TPM, số doanh nghiệp áp dụng còn thấp hơn.
Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch nâng cao năng suất
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 6/8/2022 của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, thời gian qua, ngành Công Thương đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác với các đơn vị, tổ chức trong nước cũng như quốc tế, các doanh nghiệp FDI lớn tại Việt Nam nhằm hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bộ Công Thương đã và đang phối hợp với các cơ quan đơn vị triển khai Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 - 2025 nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa và tăng cường kết nối, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đáng chú ý, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) và Samsung Việt Nam đã phối hợp triển khai một số dự án hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi sản xuất của Samsung cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các chương trình này bước đầu đã đạt được những kết quả khá ấn tượng: Đào tạo được 406 tư vấn viên trên toàn Việt Nam, cải tiến quy trình sản xuất cho 379 doanh nghiệp Việt Nam…
Tiếp nối thành công của những chương trình đã triển khai, trong thời gian tới, Cục Công nghiệp sẽ tiếp tục triển khai thêm nhiều hoạt động hợp tác song phương và đa phương, ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Nhiều chuyên gia năng suất, chất lượng cho rằng, để gia tăng sức cạnh tranh, bên cạnh sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước, ý thức trách nhiệm của từng doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, nhất là trong vấn đề cải tiến năng suất, chất lượng sản phẩm.
Mỗi doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kế hoạch, tăng cường áp dụng các giải pháp linh hoạt trong quản lý, điều hành sản xuất, thúc đẩy sáng kiến, đổi mới mô hình kinh doanh để đảm bảo kinh doanh liên tục, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tuân thủ các tiêu chuẩn trên thị trường...