Fed tăng lãi suất, tài chính châu Á không dễ khủng hoảng

Theo Diễm Ngọc/diendandoanhnghiep.vn

Theo chuyên gia, Fed tăng lãi suất có thể dẫn đến một số dòng vốn chảy ra ngoài và chi phí đi vay cao hơn đối với khu vực chấu Á, nhưng một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện là khó xảy ra...

Những nỗ lực kiềm chế lạm phát gần đây của Fed đã làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Những nỗ lực kiềm chế lạm phát gần đây của Fed đã làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.

Theo đánh giá của nhóm chuyên gia tại tại Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế vĩ mô khu vực ASEAN + 3, những thay đổi mang tính chất “diều hâu” trong chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thường dẫn đến căng thẳng kinh tế và tài chính gia tăng ở các nền kinh tế mới nổi.

Trong quá khứ, vào đầu những năm 1990, Fed đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, dẫn đến cuộc khủng hoảng rượu Tequila ở Mexico. Vào năm 2013, Fed cũng báo hiệu ý định thắt chặt chính sách tiền tệ, gây ra việc bán tháo tài sản ở các thị trường mới nổi lớn. Vì thế, các nhà hoạch định chính sách thuộc khu vực ASEAN cùng với Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông), Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ đặc biệt lo lắng về thái độ của Fed.

Không thể phủ nhận, những nỗ lực kiềm chế lạm phát gần đây của Fed đã làm dấy lên lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Thời điểm đó, cuộc khủng hoảng chủ yếu gây ra bởi sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô và sự đảo chiều dòng vốn mạnh, gây ra bởi các cuộc tấn công đầu cơ vào đồng Baht của Thái Lan và các đồng tiền khác trong khu vực.

Tuy nhiên ngày nay, các nền kinh tế ASEAN + 3 đã mạnh mẽ và bền vững hơn, với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng được tài trợ bởi dòng vốn mạnh và lượng cho vay nước ngoài lớn. Hầu hết các đồng tiền châu Á đều được gắn với đồng USD. Đặc biệt, những cải cách cơ cấu mạnh mẽ đã giúp các nền kinh tế ASEAN + 3 xây dựng lại bảng cân đối, củng cố nền tảng kinh tế và thiết lập khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh. Ngoài dự trữ ngoại hối trị giá 7.000 tỷ USD, các nền kinh tế ASEAN + 3 hiện có thể dựa vào các thỏa thuận hoán đổi đa phương như thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.

“Hầu hết các nền kinh tế mới nổi trong khu vực Đông Nam Á đều có thặng dư tài khoản vãng lai trong những năm gần đây. Ngược lại, những năm trước 1997 các nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng thường xuyên thâm hụt tài khoản vãng lai và phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Trong đó, ASEAN-4 (Malaysia, Philippines, Indonesia và Thái Lan) đã có thặng dư tài khoản vãng lai trong hầu hết hai thập kỷ qua, ngoại trừ Indonesia, có mức thâm hụt nhỏ.

Nhìn chung, các ngân hàng đã có vốn hóa tốt với đủ bộ đệm thanh khoản, kể từ khi áp dụng các quy định của Basel sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Kết quả là, các ngân hàng đã vững vàng khi bước vào đại dịch COVID-19, cho phép họ tham gia vào các vùng đệm vốn theo quy định và phản chu kỳ của họ”, chuyên gia từ Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế vĩ mô khu vực ASEAN + 3 nhận xét.

Mặc dù đại dịch vẫn chưa kết thúc, nhưng quỹ đạo phục hồi của mỗi nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào khả năng thích ứng và nắm bắt cơ hội mới. Việc thắt chặt tiền tệ của Hoa Kỳ được cho là ảnh hưởng bất lợi và không đồng đều đến thị trường tài chính trong ASEAN + 3, thậm chí sẽ kích hoạt dòng chảy vốn khỏi các thị trường tương tự như giai đoạn năm 2013.

Trong những tháng gần đây, các nhà đầu tư đã bán cổ phiếu ở Hàn Quốc và Philippines, đồng thời giảm vị thế của họ đối với trái phiếu Indonesia và Malaysia. Tuy nhiên, những dòng tiền này dường như không đáng kể và không đe dọa đến sự ổn định tài chính.

Mặt khác, sự phục hồi của Trung Quốc sẽ đóng vai trò quan trọng góp phần vào sự phục hồi của khu vực, khi nền kinh tế nước này được dự báo sẽ chạm đáy và lấy lại động lực trong nửa cuối năm 2022, với mức tăng trưởng cả năm dự kiến khoảng 4,8%.

Fed tăng lãi suất có thể dẫn đến một số dòng vốn chảy ra ngoài và chi phí đi vay cao hơn đối với ASEAN + 3, nhưng một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện là khó xảy ra.

Đối với Việt Nam, CEO WiGroup Trần Ngọc Báu cho rằng, hiện tại cần quan tâm đến hai yếu tố: Khi nào Fed ngừng tăng lãi suất và bối cảnh tăng trưởng kinh tế Mỹ thay đổi sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam ra sao?

Trả lời cho câu hỏi trên, vị CEO nhận định, đến nay Fed đã cạn room tăng lãi suất cơ bản đồng USD. Thông thường, một Chính phủ chịu sức ép với hai mục tiêu: duy trì tăng trưởng kinh tế, toàn dụng lao động và kiểm soát lạm phát.

Đáng chú ý, lạm phát không phải yếu tố cần quan tâm nhiều ở Việt Nam, mà yếu tố cần quan tâm nhất là tỷ giá. Đây là yếu tố chính ảnh hưởng đến chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Khi Fed tăng lãi suất, thị trường vốn ảnh hưởng, NHNN đã lựa chọn ổn định tỷ giá và hút tiền về bằng mọi hình thức.

“Đồng thời, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện không đủ để duy trì sự độc lập của chính sách tiền tệ. Từ cuối năm 2022, lãi suất của Fed lập đỉnh, có thể Fed sẽ dần quay trở lại với chu kỳ nới lỏng mặc dù sẽ chậm chạp hơn trước, áp lực dòng vốn lên Việt Nam không còn. Áp lực tăng trưởng kinh tế năm 2023 là một bài toán khó khi các nền kinh tế lớn đều đứng trước ngưỡng cửa suy giảm tăng trưởng đáng kể. Bối cảnh này có thể cũng sẽ khiến cho NHNN sớm quay trở lại với chu kỳ nới lỏng”, ông Báu phân tích.