Giải mã những nguyên nhân tăng giá vàng

Nguyễn Hữu Tuấn - TCTC số 10/2010

Trong những ngày tháng 9 đầu tháng 10/2010 vừa qua, giá vàng thế giới liên tiếp lập các kỷ lục mới và hiện được giao dịch quanh mức 1.310-1.320 USD/ounce. Nếu tính từ đầu năm 2010 đến nay, giá vàng đã tăng khoảng 20% và đang hướng tới năm tăng giá thứ 10 liên tiếp - chuỗi tăng giá dài nhất trong lịch sử giao dịch của mặt hàng này.

       Những nguyên nhân tăng giá vàng thế giới

Có thể nói, thời điểm vừa qua là một dấu mốc quan trọng đối với cả thị trường vàng thế giới và thị trường vàng trong nước. Trong khi giá vàng thế giới chính thức phá vỡ ngưỡng hỗ trợ 1.300 USD/ounce và thiết lập mức cao kỷ lục mới 1.322 USD/ounce vào ngày 01/10 thì giá vàng trong nước cũng đã gần chạm mốc 31,60 triệu đồng/lượng vào ngày 04/10 vừa qua. Với mức giá như hiện nay, giá vàng thế giới đã tăng trên 300 USD/ounce so với cùng kỳ năm ngoái (tương đương khoảng 31%). Như vậy, sau 9 năm thị trường liên tục tăng giá thì năm 2010 này có thể trở thành năm tăng giá thứ 10 liên tiếp của vàng.

Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2009 đến nay, thị trường vàng thế giới luôn sôi động do các nhà đầu tư chen chân tìm chỗ trú ẩn an toàn khi thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản biến động khó lường. Nhiều nhà đầu tư rót tiền vào vàng thông qua thị trường chứng khoán như mua cổ phiếu của các công ty khai thác vàng, hoặc các quỹ đầu tư chứng khoán tổng hợp nhưng số khác lại chọn cách mua vàng trực tiếp. Nhờ đó, trong vòng 10 năm qua giá vàng đã tăng gấp 5 lần (so với mức 251 USD/ounce hồi tháng 9/1999) và đang ở mức cao nhất mọi thời đại. Tuy vậy, hiện vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy giá vàng sẽ sớm hạ nhiệt bởi những nguyên nhân sau: 

-    Các NHTW châu Âu ngừng bán vàng: Ngày 27/09, Tờ Financial Times đưa tin, các NHTW thuộc khu vực đồng tiền chung Euro cùng với Thụy Điển và Thụy Sỹ đã giảm mạnh lượng vàng bán ra trong 1 năm trở lại đây. Trong vòng 1 năm tính tới tháng 9/2010, các quốc gia ký kết Thỏa thuận vàng giữa các NHTW (CBGA - được ký kết bởi các quốc gia nằm trong khu vực đồng Euro, Thụy Sỹ và Thụy Điển nhằm đặt mức trần cho tổng lượng vàng bán ra bởi các ngân hàng trung ương hàng năm) chỉ bán ra 6,2 tấn vàng, giảm 96% so với năm trước. Đây là lượng vàng bán ra thấp nhất kể từ khi CBGA ra đời.

 Cũng theo Financial Times, việc các NHTW châu Âu ngừng việc bán vàng ra xuất phát từ việc họ đánh giá lại vai trò của vàng trong bối cảnh khủng hoảng nợ tấn công vào khu vực. Trước kia, vàng bị châu Âu xem là một tài sản có khả năng sinh lợi kém. Thỏa thuận CBGA đã hết hạn vào ngày 26/09 vừa qua. Trong khi đó, theo ước tính của công ty tư vấn kim loại quý GFMS thì năm 2010 là năm mà các NHTW lần đầu tiên mua ròng vàng kể từ năm 1988 trở lại đây, dù khối lượng mua ròng mới chỉ vào khoảng 15 tấn. Những đợt mua vàng chính thức với quy mô lớn, lên tới vài trăm tấn, chưa lần nào diễn ra kể từ năm 1965 - trước giai đoạn sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định neo buộc vào vàng Bretton Woods.

 - Lo ngại lạm phát: Khi khủng toàn toàn cầu nổ ra, nhiều Ngân hàng trung ương trên thế giới đã áp dụng các chính sách nới lỏng tiền tệ và hàng nghìn tỷ USD đã được bơm ra thị trường để giúp nền kinh tế chống lại nguy cơ suy thoái. Hệ quản kéo theo là áp lực lạm phát gia tăng và niềm tin của người dân vào đồng tiền giấy với vai trò là một khoản cất trữ có giá trị bị sụt giảm, khiến họ lại tăng cường mua vàng để bảo đảm tài sản của mình.

Thời gian gần đây, dư luận không còn lo lắng về lạm phát mà lại lo ngại giảm phát. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, dù nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát hay giảm phát thì giá vàng vẫn tiếp tục tăng. Vàng không giúp bất kỳ quốc gia nào chống lại lạm phát hay giảm phát, song nó luôn là thứ tài sản an toàn nhất khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn khó khăn.

 - Yếu tố cung – cầu: Nguồn cung vàng trên trái đất là hữu hạn và việc khai thác kim loại quý này ngày càng trở nên khó khăn đã khiến cung ngày càng khó bắt kịp so với cầu, nhất là khi các quốc gia sản xuất vàng hàng đầu đang cạn kiệt dần tài nguyên. Vào đầu thế kỷ này, Nam Phi cung cấp tới 74% lượng vàng khai thác trên thế giới, song đến thời điểm hiện nay con số này giảm xuống còn 19%. Ước tính tổng khối lượng vàng dự trữ đã qua chế biến của thế giới hiện ở mức 160.000 tấn. Mỗi năm lại có thêm 2.400 tấn nữa được bổ sung, tương đương với mức tăng 1,7% - thấp hơn nhiều so với mức tăng của cầu. Tổng cầu trên thị trường vàng hiện đang vượt tổng cung khoảng 1%/năm, và mức chênh này đang gia tăng. Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến năm 2008, GFMS tính toán rằng sản lượng vàng trên toàn cầu giảm 0,8%. Dự báo tình hình sản xuất vàng sẽ vẫn trì trệ trong vài năm tới bởi sản lượng từ các mỏ cũ hết và chưa tìm được nguồn mới thay thế. Các nước sản xuất vàng lớn như Nam Phi và Mali gặp nhiều trục trặc trong khai thác vàng. Sản lượng của các nước Tây Phi giảm 9% trong năm 2007. Khi nhu cầu ngày một tăng, chênh lệch cung – cầu ngày một lớn.

- Biến động trên thị trường chứng khoán và dầu mỏ: Sau khi đã bật mạnh trong những năm trước đây, thị trường chứng khoán và hàng hóa đã quay đầu giảm giá trong năm 2008 do nền kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng. Mặc dù các chỉ số chứng khoán đã hồi phục phần nào nhưng những biến động vẫn còn tiếp diễn. Nhiều nhà đầu tư thận trọng trong kế hoạch bảo vệ vốn của mình và vàng vẫn được coi là một tài sản an toàn cho giới đầu tư. Đáng chú ý là, cuộc khủng hoảng năm 2008 đã tạo ra một thế hệ những nhà đầu tư vàng mới. Nhu cầu mạnh mẽ từ các nhóm đầu tư này cùng với những người mua vàng truyền thống đã khiến lượng dự trữ vàng thỏi và vàng xu toàn cầu giảm, do đó, kéo giá vàng miếng tăng lên trong khi lượng sản xuất giảm mạnh trên toàn cầu.

- Yếu tố Trung Quốc: Giá vàng từ lâu đã chịu tác động nhiều bởi thị trường Trung Quốc- một trong những quốc gia tiêu thụ và sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Đặc biệt, thị trường vàng tại đây đang ngày càng được mở rộng hơn. Thặng dư thương mại của Trung Quốc đứng ở mức cao, xếp ngang hàng với Mỹ và châu Âu - những quốc gia có lượng ngoại hối tương đối lớn. Quốc gia này cũng đang lập kế hoạch đa dạng hóa lượng dự trữ ngoại hối của mình bằng cách tăng cường lượng nắm giữ vàng. Thêm vào đó, Trung Quốc cũng đang xem xét việc dùng USD dự trữ của mình để đầu tư vào các dự án tài nguyên thiên nhiên trong thời gian tới. Trong bối cảnh hiện tại, đối với Trung Quốc, vàng vẫn là một khoản đầu tư sáng giá.

- Nợ công và thâm hụt ngân sách: Khủng hoảng nợ công ở châu Âu với các nạn nhân đầu tiên là Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland và Italia - các nước được gọi tắt là PIIGS - đã chất gánh nặng lên đồng Euro và làm suy giảm lòng tin đối với hệ thống ngân hàng châu Âu. Các nhà đầu tư tìm đến vàng như một điểm trú chân trong cơn bão tài chính ở châu Âu. Cùng với đó, ngày 19/09/2010 vừa qua, Văn phòng ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) cho rằng nước Mỹ sẽ có thâm hụt 1,3 nghìn tỷ USD trong năm tài khóa kết thúc ngày 30/09/2010. Mức thâm hụt ngân sách như trên tương đương 9,1% tổng GDP và cũng là mức cao thứ 2 trong suốt 65 năm qua, mức thâm hụt năm 2009 là 9,9% GDP.

- Fed duy trì lãi suất thấp: Khi tỷ lệ lãi suất thực tế ở mức thấp, rất nhiều nhà đầu tư quay lưng lại với các tài sản bằng giấy, thay vào đó, họ dành sự quan tâm tới các tài sản có giá trị thực, giống như vàng. Khi tỷ lệ lãi suất thấp, việc bảo hiểm cũng ít được khuyến khích. Do đó, lượng cung vàng trong ngắn hạn có xu hướng giảm, kéo theo sự bất cân bằng trên thị trường trong khi nhu cầu ngày càng leo thang. Trong khi nền kinh tế Mỹ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tính thanh khoản bị thắt chặt cùng với sự thua lỗ nặng nề trên thị trường nhà đất và tài chính, Hãng Goldman Sachs dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức trên 0% ít nhất là cho đến năm 2012. Không những thế, FED có thể sắp công bố một chương trình thu mua tài sản mới để kích thích kinh tế trong tháng 11/2010 tới và đây cũng là một trong những nguyên nhân hỗ trợ thị trường vàng.

- Đồng USD và Yên sụt giảm: Thông tin FED tiếp tục hỗ trợ kinh tế Mỹ bằng cách gia tăng chính sách “nới lỏng có định lượng” trong khi IMF cho rằng chính phủ các quốc gia châu Âu sẽ tiếp tục mua vào trái phiếu nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế trong bối cảnh phục hối kinh tế vẫn chập chờn đã làm đồng USD giảm mạnh so với hầu hết các đồng tiền chính. Trong quý III/2010 vừa qua, đồng USD đã hạ giá 9,9% so với đồng Euro đồng thời rơi xuống mức thấp nhất trong 5 tháng qua so với đồng tiền này và đang hướng tới quý giảm giá mạnh so với 16 loại tiền tệ lớn. Đặc biệt, sự can thiệp của Chính phủ Nhật vào tỷ giá đồng Yên bằng cách bán mạnh đồng tiền Yên (thông tin cho biết Nhật đã bán ra từ 200-300 tỷ yên để mua vào đồng USD) cũng đã khiến đồng yên giảm mạnh, thúc đẩy giới đầu tư chuyển sang vàng góp phần đưa giá đi lên (đồng yên vốn cũng được xem là nơi trú ẩn an toàn cùng với vàng).

- Các quỹ trên thế giới đẩy mạnh mua vàng: Trên thị trường quốc tế, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới SPDR Gold Trust vừa bán 0,3 tấn vàng nhưng số liệu gần đây cho thấy tổ chức này mua vào nhiều hơn bán ra. Cụ thể, từ đầu tháng  9/2010 đến nay, SPDR Gold Trust mua vào 17,3 tấn vàng, bán ra 14,4 tấn vàng; trong tháng 8/2010, tổ chức này mua vào 22 tấn vàng và chỉ bán ra gần 2 tấn vàng. Ngày 28/09 vừa qua, SPDR Gold Trust cũng đã mua vào 5,2 tấn vàng, nâng khối lượng nắm giữ lên mức kỷ lục 1.305,7 tấn. Giới kinh doanh vàng cho biết động thái mua - bán của SPDR Gold Trust thường dẫn dắt thị trường, kéo theo sức mua – bán của nhiều nhà đầu tư khác, tác động rất lớn đến giá vàng.

- Chính phủ các nước đa dạng hoá dự trữ: Cũng giống như các quỹ lớn trên thế giới, Chính phủ các nước mà điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ đang ngày càng có xu hướng quay sang sử dụng vàng như một phương tiện cất giữ hiệu quả và thay thế tiền tệ trong các trường hợp hoán đổi quốc tế nhất định. Cụ thể, Ngân hàng dự trữ Ấn Độ đã chi 6,7 tỷ USD để mua 200 tấn vàng hồi cuối năm 2009 từ IMF khi giá dao động ở mức hơn 1.000USD/ounce đưa dự trữ vàng chiếm 6% tổng dự trữ ngoại tệ. Trong khi đó, Trung Quốc liên tục là nước nhập ròng vàng trong vòng 5 năm qua, đưa dự trữ vàng của nước này từ 600 tấn lên 1.054 tấn. Nước này sẽ còn phải tiếp tục tăng lượng vàng dự trữ nếu như muốn thế giới chấp nhận đồng Nhân dân tệ làm đồng tiền thanh toán quốc tế.

- Yếu tố thời vụ: Tháng 9 hàng năm thường đánh dấu thời gian khởi đầu của khoảng thời gian nhu cầu vàng tăng mạnh. Khoảng thời gian đó đã bắt đầu sớm hơn trong năm 2010 với ngày lễ Ramadan của người Đạo Hồi, mùa cưới tại Ấn Độ - vốn là thị trường tiêu thụ vàng trang sức lớn nhất thế giới, ngày lễ hội Ánh sáng (Diwali) tại Ấn Độ, sau đó đến kỳ nghỉ Giáng Sinh. Trái lại, tháng 9 thông thường lại là tháng tăng trưởng yếu của đồng USD, yếu tố này cũng đóng góp không nhỏ vào việc giá vàng tăng mạnh.

- Yếu tố văn hoá: Cần phải kể đến yếu tố văn hóa trong việc giá vàng tăng không ngừng suốt 10 năm qua. Cụm từ “quý như vàng” phổ biến trong rất nhiều ngôn ngữ. Giới phân tích chỉ ra rằng vàng không phải kim loại quý hiếm nhất nhưng vẫn “lên ngôi” trong các cuộc khủng hoảng vì nó khống chế được tâm lý của người dân. Dù bạch kim quý hiếm hơn vàng nhưng rất khó để tìm thấy mỏ bạch kim nào lớn trên thế giới và giá bạch kim chịu sự chi phối chủ yếu của yếu tố cung cầu cũng như nhiều kim loại khác. Vàng cũng là đơn vị tiền tệ phổ biến trên khắp thế giới suốt hơn 2.500 năm qua và đóng vai trò quan trọng trong mọi nền văn hóa và tôn giáo.

Vàng thế giới sẽ tăng đến đâu? 

Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết, nhu cầu về vàng sẽ vẫn mạnh từ nay đến hết năm. Nguyên nhân là do nhu cầu tăng cao ở Ấn Độ và Trung Quốc, cũng như làn sóng đầu tư vào vàng trước lo ngại về tình trạng nợ công và tiến trình hồi phục chập chờn của kinh tế thế giới. Sau thời gian liên tục lập kỷ lục tăng cao, giá vàng thế giới sẽ ổn định ở mức xung quanh 1.400 USD/ounce vào năm 2011. Đây là dự đoán được giới chuyên gia đưa ra tại hội nghị các chuyên gia về kim loại quý trên thế giới nhóm họp ở Berlin, Đức vào ngày 27/09 vừa qua.

Theo dự báo của các chuyên gia kim loại quý, giá vàng sẽ dao động ở mức 1.406 USD/ounce vào thời điểm tháng 9/2011, cao hơn khoảng 100 USD/ounce so với mức hiện nay là trên 1.300 USD/ounce. Các nhà phân tích cho rằng sở dĩ giá vàng thế giới đã tăng hơn 30% kể từ tháng 9/2009 là do các nhà đầu tư lo ngại tình hình kinh tế toàn cầu chưa phục hồi vững chắc và nguy cơ thế giới rơi vào khủng hoảng kinh tế kép chưa được loại bỏ hoàn toàn. Một nguyên nhân khác khiến giá vàng tăng mạnh là do đồng USD của Mỹ yếu khiến người mua quay sang tích trữ vàng nhiều hơn, xu hướng này càng kích thích và đẩy giá vàng lên cao.

Nhu cầu vàng vật chất tăng trong khi chính phủ các nước châu Á đang lặng lẽ gia tăng lượng vàng dự trữ cũng sẽ là nhân tố quan trọng hỗ trợ cho giá vàng. Ông John Meyer, chuyên gia quản lý cao cấp của Fairfax IS, dự báo giá vàng có thể tiếp tục tăng và phá vỡ ngưỡng 1.500 USD/ounce trước lễ Giáng sinh năm nay mà nguyên nhân chủ yếu do nhiều quốc gia vẫn sẽ tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản, đặc biệt là ngân hàng trung ương các quốc gia Âu – Mỹ tăng cường mua vàng nhưng không bán ra.

Tuy nhiên, một số ý kiến lại cho rằng, khi xem xét lại lịch sử giá vàng thì năm 2008 giá vàng đạt “đỉnh” 1.030 USD/ounce vào ngày 17/3/2008 sau đó đã đảo chiều rất mạnh và giảm xuống còn 680 USD/ounce vào tháng 10/2008. Ở thời điểm đó, vàng đã tăng vượt ra khỏi yếu tố hỗ trợ thông thường khi các hoạt động đầu cơ gia tăng quá mức. Hiện nay, giá vàng đã đạt đỉnh của chu kỳ 30 năm (đỉnh của chu kỳ trước đó là năm 1980) và nếu lịch sử lặp lại thì giá vàng có thể rớt mạnh bất cứ lúc nào.

Giá vàng tại Việt Nam 

Do giá vàng thế giới tăng mạnh và liên tiếp phá vỡ mức kỷ lục nên giá vàng trong nước thời gian qua liên tục tăng mạnh, vượt khá xa so với mức cao kỷ lục được thiết lập hồi cuối năm 2009 vừa qua khi được giao dịch ở gần mốc 31,60 triệu đồng/lượng – đây cũng là mức giá cao nhất trong lịch sử giá vàng trong nước.

Cụ thể, vào lúc 09h00 sáng ngày 04/10, giá bán ra vàng miếng các thương hiệu trong nước được các doanh nghiệp kinh doanh kim hoàn đẩy lên mức bình quân 31,55 triệu đồng/lượng, cao hơn cuối tuần trước khoảng 50.000 đồng/lượng. Giá thu mua vàng cũng được nâng lên 31,50 triệu đồng/lượng. Đây là những mức giá cao chưa từng có tại thị trường vàng trong nước. Tại thị trường Hà Nội, giá vàng SJC do Phú Quý niêm yết là 31,50 triệu đồng/lượng (mua vào) và 31,57 triệu đồng/lượng (bán ra). Cùng thời điểm, Sacombank-SBJ báo giá vàng miếng SBJ cho thị trường Tp.HCM ở mức 31,52 triệu đồng/lượng và 31,56 triệu đồng/lượng.

Theo giới kinh doanh vàng, phần lớn giao dịch phát sinh trong tuần kết thúc ngày 01/10 vừa qua là bán chốt lời hoặc mua với số lượng hạn chế. Tuy nhiên, rủi ro lớn đi kèm với mức giá vàng cao khiến người dân và các nhà đầu tư tiếp tục duy trì tâm lý thận trọng. Vì lý do trên, thị trường vàng vật chất trầm lắng suốt tuần bất chấp giá tăng nóng liên tục. Dấu mốc lịch sử của giá vàng trong nước chính là khi giá vàng bất ngờ tăng vọt 700.000 đồng/lượng và vượt qua ngưỡng 31 triệu đồng/lượng vào sáng ngày 21/09.

Giá vàng trong nước tăng mạnh thời gian qua được lý giải là bởi các nhân tố cơ bản sau: 

- Tác động từ thị trường quốc tế: Trong điều kiện cung vàng trong nước vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu thì việc tăng giá vàng thế giới tất yếu đẩy giá vàng “nội” tăng. Đây cũng là lời giải thích được nhiều nhà kinh doanh vàng đưa ra trong thời điểm giá vàng trong nước tăng mạnh vừa qua. Ngoài ra, sự chênh lệch giá vàng quốc tế và trong nước, cũng như nhu cầu tăng vốn của các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng các điều kiện của Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc NHNN bắt đầu có hiệu lực từ 01/10 này được xem là nguyên nhân chính đẩy giá vàng đứng ở mức xấp xỉ 31,50 triệu đồng/lượng như hiện nay.

- Nguồn cung hạn chế: Hiện nay nguồn cung của thị trường vàng trong nước khá mỏng đặc biệt bắt nguồn từ việc một lượng vàng nhất định đã chảy vào các Ngân hàng trong những ngày qua khi lãi suất huy động vàng được các Ngân hàng tăng mạnh. Trước đây, khi các Ngân hàng “hắt hủi” vàng và áp dụng mức lãi suất gửi vàng bằng 0% do không có đầu ra khiến nhiều người đã phải bán vàng chuyển qua VND hoặc chuyển sang USD thì tới nay đã có nhiều Ngân hàng tuyên bố huy động vào ở mức 0,5 – 0,8%/năm thậm chí lên tới 1%/năm. Và như vậy, trong khi nguồn cung đang yếu thế thì lượng vàng chảy vào kênh Ngân hàng đang làm cho nguồn cung trở nên yếu hơn. Đây là nguyên nhân khiến giá trong nước luôn được điều chỉnh tăng nhanh hơn tốc độ tăng của giá vàng thế giới

- Xuất khẩu nhiều, nhập khẩu ít: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu vàng đạt 1,34 tỷ USD, tương đương khoảng 36 tấn vàng. Tiếp đó, trong tháng 8/2010, kim ngạch nhóm các mặt hàng đá quý, kim loại quý và sản phẩm (trong đó chủ yếu là vàng) đã tăng thêm 768 triệu USD. Hoạt động xuất khẩu diễn ra mỗi khi giá vàng thế giới tăng mạnh và giá vàng trong nước không theo kịp, tạo ra một độ vênh nhất định để các doanh nghiệp xuất khẩu thu lãi. Trong khi đó, số vàng nhập khẩu hầu như không đáng kể. Đặc biệt, sau giai đoạn xuất khẩu vàng trang sức mạnh, nguồn vàng trong dân vẫn ở “trạng thái bất động” do chưa tìm được kênh đầu tư thực sự an toàn đã khiến cho chênh lệch cung - cầu trên thị trường tăng. Điều này giải thích tại sao các doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc mỗi khi khan hàng lại phải tìm thu gom trên thị trường (cả vàng lậu) để có nguồn kinh doanh và xuất khẩu.

- Lo ngại lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng trước-đây là mức tăng cao nhất trong 6 tháng qua kể từ tháng 3/2010 trở lại đây. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2010 tăng 8,64% so với bình quân 9 tháng năm 2009. Nhà đầu tư lo ngại lạm phát còn tăng cao hơn khi các động thái chính sách cho thấy Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu tăng trưởng 7%, điều này đồng nghĩa với khả năng cung tiền sẽ được mở rộng hơn, tỷ giá sẽ tăng cao và cộng hưởng đẩy giá vàng đi lên.

- Tâm lý kiếm lời: Do dự đoán rằng khi giá vàng liên tục lập kỷ lục mới thì sau đó thường giảm nhẹ nên giới đầu tư vàng cũng tăng nhu cầu vay vàng để bán giá cao, rồi chờ vàng giảm giá mua lại trả nợ Ngân hàng, hưởng chênh lệch.

- Ảnh hưởng từ tỷ giá VND/USD: Không chỉ được đẩy lên bởi giá vàng thế giới, giá vàng trong nước tăng mạnh còn được cho là do giá USD thị trường tự do leo thang. Sau vài ngày ổn định ở mức 19.540 đồng, ngày 30/09 giá mua bán ra đồng USD tại Hà Nội đã vọt lên mức 19.640 đồng (mua vào) và 19.680 đồng (bán ra) và có lúc đã gần chạm mốc 19.700 đồng.