Giải quyết tình trạng “ngư dân đợi vốn, vốn đợi tàu”
Kể từ khi Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản chính thức có hiệu lực (25/8/2014) đến nay con số tàu được đóng mới và nâng cấp rất khiêm tốn, mới chỉ có 52 tàu được nâng cấp, đóng mới với tổng số vốn 525 tỷ đồng. Vướng mắc lớn nhất chính là vốn đối ứng và một số vấn đề nảy sinh trong quá trình giải ngân như: Cải hoán tàu cũ thành tàu mới, hoàn thuế giá trị gia tăng... Từ thực tiễn triển khai, bài viết đề xuất một số giải pháp xử lý nhằm đẩy mạnh hiệu quả cho vay theo Nghị định trên.
Sau 1 năm triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP
Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản được ban hành vào ngày 7/7/2014 và có hiệu lực từ ngày 25/8/2014. Nghị định này quy định đầy đủ, đồng bộ các chính sách cơ bản nhất cho việc khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn, vỏ thép để dần chuyển từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ có giá trị kinh tế cao hơn. Trong đó, nổi bật nhất là chính sách tín dụng hỗ trợ đóng tàu. Nghị định 67/2014/NĐ-CP quy định mức lãi suất hết sức ưu đãi từ 1-3%/năm (mức lãi suất thấp nhất hiện nay), Nhà nước cấp bù từ 4-6% với thời gian cho vay là 11 năm; trong đó, có một năm ân hạn, hạn mức cho vay từ 70-95% giá trị đóng mới tàu. Cụ thể, với tàu thép đóng mới có công suất máy chính từ 400-800CV, ngư dân sẽ chịu lãi suất 7%/năm nhưng lại được ngân sách nhà nước hỗ trợ 5%/năm, với tàu vỏ thép đóng mới có công suất trên 800CV, ngân sách nhà nước hỗ trợ tới 6%/năm, với tàu vỏ gỗ đóng mới, ngân sách nhà nước hỗ trợ 4% và 4% cũng là mức hỗ trợ đối với tàu vỏ gỗ đóng mới nhưng được gia cố bọc thép hoặc bọc vật liệu mới, nếu ngư dân vay vốn để nâng cấp tàu cũng được hỗ trợ với lãi suất rất ưu đãi.
Triển khai chính sách hỗ trợ trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể như: Quy định về thiết kế kỹ thuật mẫu tàu cá; đơn vị được phép thiết kế mẫu tàu cá vỏ thép khai thác hải sản, tàu dịch vụ khai thác hải sản xa bờ; Quy định chi tiết các yêu cầu về nhà xưởng, trang thiết bị tối thiểu đối với cơ sở đóng mới, nâng cấp, cải hoán tàu cá vỏ gỗ, vỏ vật liệu mới (composite) và vỏ thép; Đối tượng, mức chi, điều kiện được hỗ trợ và hồ sơ đề nghị hỗ trợ thực hiện theo quy định tại Thông tư số 117/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP…
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã chỉ định 5 ngân hàng thương mại nhà nước trích 14.000 tỷ đồng để cho ngư dân vay bao gồm: Agribank 5.000 tỷ đồng, BIDV 3.000 tỷ đồng, Vietinbank 3.000 tỷ đồng, MHB 2.000 tỷ đồng, Vietcombank 1.000 tỷ đồng. Để đẩy nguồn vốn này vào cuộc sống, các ngân hàng đã tổ chức các tổ công tác trực tiếp xuống các xã, phường, thị trấn để hướng dẫn người dân hoàn thiện hồ sơ, thủ tục vay vốn theo quy định, đảm bảo người dân được vay trực tiếp tại ngân hàng, nhằm hạn chế tối đa việc vay vốn đóng tàu thông qua môi giới tín dụng. Đồng thời, lập đường dây nóng để tiếp nhận và phản hồi kịp thời những thắc mắc của người dân khi tham gia chương trình, xử lý nghiêm minh những cán bộ ngân hàng vi phạm quy định…
Sau hơn 1 năm triển khai, đến nay mặc dù đã đạt những thành quả bước đầu nhưng cũng không ít vướng mắc nảy sinh khi ngư dân tiếp cận nguồn vốn Nghị định 67/2014/NĐ-CP. Cụ thể theo kế hoạch, với sự ra đời của Nghị định 67/2014/NĐ-CP, cả nước sẽ có 2.079 tàu khai thác đánh bắt xa bờ và 205 tàu dịch vụ hậu cần được đóng mới bổ sung. Vậy nhưng, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đến nay mới chỉ có 23/28 địa phương ven biển phê duyệt danh sách chủ tàu đủ điều kiện vay vốn, với 818 tàu trên 400CV; trong đó đóng mới 731 tàu, nâng cấp 87 tàu; đã cho vay để đóng mới, nâng cấp 52 tàu, với tổng số tiền 525 tỷ đồng…
Quá trình giải ngân nguồn vốn Nghị định 67/2014/NĐ-CP cũng diễn ra chậm và còn thấp so với kế hoạch đề ra. Cụ thể, đến nay Ngân hàng Agribank cam kết giải ngân được xấp xỉ 200 tỷ đồng. Ngân hàng BIDV cũng đã ký kết 5 hợp đồng tín dụng với tổng trị giá 63,2 tỷ đồng. 3 ngân hàng còn lại trong nhóm 5 ngân hàng đã cam kết tham gia chương trình là Vietcombank, VietinBank, MHB tuy đã khởi động song còn rất e dè và chưa tạo nhiều chuyển biến lớn trong việc thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP.
Vướng mắc chính là ở khâu thiết kế mẫu tàu và quy trình phê duyệt hồ sơ ở địa phương, vốn đối ứng của ngư dân. Theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP, tùy thuộc vào chất liệu vỏ tàu và công suất máy chính, ngư dân có thể vay tối đa từ 70% đến 95% tổng giá trị đầu tư đóng mới, nâng cấp tàu, bao gồm: Máy móc, ngư lưới cụ, trang thiết bị hàng hải, máy móc thiết bị bảo quản hải sản, bảo quản hàng hóa, bốc xếp hàng hóa. Như vậy, yêu cầu về phần vốn đối ứng đã là một thách thức không nhỏ đối với ngư dân, bởi giá thành mỗi con tàu đóng mới có thể lên đến 15-17 tỷ đồng.
Vướng mắc nữa là về “hoàn thuế giá trị gia tăng”, Nghị định 67/2014/NĐ-CP quy định “Chủ tàu khai thác hải sản được hoàn thuế giá trị gia tăng của tàu dùng để khai thác hải sản đối với tàu được đóng mới, nâng cấp có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên”. Vậy nhưng, theo Nghị định 12/2015/NĐ – CP và Thông tư số 26/2015/TT – BTC thì tàu đánh bắt xa bờ thuộc đối tượng không chịu thuế. Do vậy, đơn vị đóng tàu xuất hóa đơn cho ngư dân không có thuế giá trị gia tăng và thuế giá trị gia tăng liên quan đến tàu cá thì tính vào chi phí sản xuất. Điều này sẽ nâng giá thành đóng tàu cho ngư dân.
Một trong những khó khăn nữa trong việc tính giá thành đóng tàu, đối với tàu vỏ thép, đó là mặc dù Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra giá khái toán đóng tàu nhưng thực tế giá thành tàu thường vượt dự toán, gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định. Bên cạnh đó, theo phản ánh thực tế tại địa phương, dự toán chi phí đóng tàu sắt có độ chênh nhau về giá rất lớn. Qua trao đổi với một số ngư dân ở Thừa Thiên Huế, Quảng Trị được biết, kinh phí dự toán đóng tàu sắt ban đầu chỉ từ 8-10 tỷ đồng/tàu (chưa gồm ngư lưới cụ), nhưng thực tế dự toán kinh phí đóng tàu và ngư lưới cụ mà các cơ sở đóng tàu đưa ra gần 16-17 tỷ đồng là quá cao. Bình quân ngư dân phải trả nợ vay từ 1,5 – 1,8 tỷ đồng/năm, rất khó đảm bảo trả nợ ngân hàng…
Những vấn đề đặt ra
Để chính sách phát triển thủy sản đạt được mục tiêu, sự nỗ lực từ phía các ngân hàng thương mại là chưa đủ, cần phải có sự nỗ lực đồng bộ từ tất cả các bên tham gia vào tiến trình thực hiện.
Thứ nhất, Chính phủ cần có các biện pháp đẩy nhanh “Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp đóng tàu”, để các cơ sở đóng tàu có thể nhanh chóng tiếp cận được với những chính sách ưu đãi về thuế, thủ tục hải quan, chính sách tín dụng cũng như có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu đóng tàu và yêu cầu của sự phát triển trong lĩnh vực đánh bắt thủy hải sản.
Thứ hai, chính quyền địa phương cần phải tiếp xúc và giải thích, giúp ngư dân thay đổi suy nghĩ, hiểu về những lợi ích của phương thức sản xuất mới, đồng thời hướng dẫn ngư dân cách xây dựng mô hình thông qua việc xây dựng một mô hình mẫu.
Thứ ba, các ngân hàng cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi tiếp xúc giữa đại diện ngân hàng với ngư dân để tháo gỡ những khó khăn trong thủ tục - hồ sơ cho khách hàng, đồng thời phổ biến rõ hơn về chính sách tín dụng ưu đãi và những điều riêng biệt của ngân hàng đến với ngư dân. Điều này giúp các ngư dân dễ dàng hơn trong việc lập hồ sơ vay vốn theo đúng yêu cầu, giảm được các trường hợp ngư dân phải làm lại hồ sơ nhiều lần làm kéo dài thời gian giải ngân nguồn vốn.
Thứ tư, tích cực thực hiện liên kết, phối hợp đồng bộ giữa các bên tham gia:
(i) Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các đơn vị đóng tàu và ngư dân, để nhanh chóng hình thành nên các mẫu thiết kế đảm bảo các thông số kỹ thuật, cũng như đáp ứng được yêu cầu của ngư dân; tránh tình trạng ngư dân đợi vốn, vốn đợi tàu.
(ii) Phân cấp rõ ràng và duy trì sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp thẩm định (chính quyền địa phương các cấp và ngân hàng thương mại). Sự phối hợp giữa các cấp này nếu không được duy trì tốt có thể dẫn đến việc tồn tại khoảng cách không nhỏ giữa tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng và tiêu chí xét duyệt của các cơ quan Nhà nước. Điều này khiến ngân hàng mất thêm thời gian thẩm định lại hồ sơ vay vốn của ngư dân, thời gian đồng vốn đến được tay ngư dân sẽ bị kéo dài.
(iii) Thường xuyên liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các bên để tạo liên kết đầu ra, đầu vào cho ngư dân, đảm bảo việc sản xuất có hiệu quả và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
(iv) Thắt chặt phối hợp giữa ngân hàng và cơ quan đảm bảo an ninh biển. Sự phối hợp này giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong giám sát tài sản đảm bảo ở các bến tàu; đồng thời, giảm thiểu những rủi ro trong quá trình ngư dân ra khơi đánh bắt cũng như quá trình phát mại tài sản đảm bảo của ngân hàng…