Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Phòng ngừa để tránh rủi ro
Với việc ký kết 66 Hiệp định đầu tư song phương (BIT) và khoảng 10 Hiệp định thương mại tự do FTA, xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng. Theo các chuyên gia, trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, việc phát sinh tranh chấp là điều khó tránh. Do đó, cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng để ứng phó với tình huống nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện.
Vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp Bạch Quốc An khẳng định, giải quyết tranh chấp đầu tư luôn là thách thức mà dù thắng hay thua, thiệt hại là điều không tránh khỏi. Đơn cử như trước đó, vào cuối năm 2014, Hội đồng Trọng tài thường trực tại La Hay (Hà Lan) đã ban hành Phán quyết vụ nhà đầu tư Pháp (DialAsie) kiện Chính phủ Việt Nam trong dự án Bệnh viện quốc tế thận và lọc thận tại TP Hồ Chí Minh. Theo đó, tất cả các khiếu kiện của nguyên đơn DialAsie hoàn toàn bị bác bỏ; song mỗi bên phải trả một nửa chi phí trọng tài và tự chịu các chi phí về luật sư của mình theo quy định của Quy tắc trọng tài UNCITRAL.
Việc giải quyết tranh chấp thường tốn kém với chi phí rất lớn, trong đó, chi phí lớn nhất là thuê luật sư và chuyên gia, chiếm khoảng 82%. Chi phí trung bình cho trọng tài là 16%, cho thư ký là 2%. Song, chi phí lớn, thời gian đeo đuổi vụ kiện lâu dài không phải là thiệt hại duy nhất. Khi tranh chấp trong đầu tư quốc tế xảy ra sẽ dễ gây ấn tượng không tốt đối với nhà đầu tư nước ngoài về môi trường pháp lý không minh bạch và việc thực thi kém hiệu quả cam kết quốc tế. Đó là hậu quả nhãn tiền mà quốc gia tiếp nhận đầu tư có thể phải đối diện khi tranh chấp xảy ra.
Minh bạch về chính sách
Nhiều chuyên gia cho rằng, quan hệ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ngày càng phong phú và đa dạng. Do đó nếu nhà đầu tư, cơ quan nhà nước ở địa phương không nắm bắt và thực hiện đúng cam kết quốc tế, bên cạnh việc thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam thì số lượng các vụ việc còn có thể tăng cao hơn nhiều trong thời gian tới với tính chất mức độ, phức tạp hơn.
Đối với Việt Nam, hệ thống pháp luật còn đang trong quá trình hoàn thiện, không ít điểm trùng lặp, mâu thuẫn giữa luật nọ với luật kia, có những điểm chưa rõ, mơ hồ dẫn tới cách hiểu, cách giải thích pháp luật khác nhau và thực thi, áp dụng pháp luật cũng có những điểm khác nhau. Từ đó dẫn tới không thống nhất về quan điểm giữa một bên là nhà đầu tư và một bên là cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tế, có rất nhiều dự án đầu tư được cấp phép theo quy định cũ, vào khoảng 20 năm trước đây. Song, đến nay, khi một loạt quy định pháp luật thay đổi, quy hoạch ở địa phương cũng thay đổi theo dẫn tới nhiều dự án không còn phù hợp. Đơn cử như ngay trung tâm không thể duy trì dự án nhà máy sản xuất và nếu địa phương không gia hạn cho nhà đầu tư thì tranh chấp rất dễ xảy ra, do đã bỏ nguồn vốn lớn để làm dự án từ rất nhiều năm trước. Bên cạnh đó, cũng có nhà đầu tư “không thiện chí” muốn lợi dụng kẽ hở pháp luật và thông qua khởi kiện để trục lợi.
Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế là giải pháp cuối cùng sau khi không thể thương lượng, hòa giải được. Để tránh thiệt hại cho cả hai phía, cần có những bước phòng ngừa, mà theo bà Bạch Thị Nhã Nam, giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh là cần nâng cao nhận thức về nguy cơ bị khởi kiện cho các cơ quan và cán bộ phụ trách lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại địa phương. .
Việc phòng ngừa tranh chấp ngay từ các bước ban đầu rất quan trọng như tuân thủ đúng quy trình thủ tục cấp phép, thẩm định, giải thích rõ ràng các chính sách ưu đãi của địa phương và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch và chuẩn bị đội ngũ chuyên gia, luật sư nắm vững quy định của các tổ chức trọng tài quốc tế về thủ tục và quy trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, cũng rất quan trọng. Bởi thực tiễn giải quyết tranh chấp về thương mại quốc tế bằng trọng tài cho thấy, sự thiếu hiểu biết sẽ dẫn đến những sai sót không đáng có về thủ tục.