Giao dịch với đối tác Trung Quốc cần đặc biệt lưu ý gì?
TS. Đào Việt Anh, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Trung Quốc lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam khi giao dịch với đối tác Trung Quốc phải thực hiện bằng hợp đồng theo thông lệ của thương mại quốc tế để tránh rủi ro.
Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, năm 2018, thương mại hai chiều Việt Nam - Trung Quốc đạt 147,8 tỷ USD, tăng trưởng 21,2% so với năm 2017.
Trung Quốc 15 năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam hiện cũng là đối tác lớn nhất của Trung Quốc trong khối các nước ASEAN, đồng thời là đối tác thương mại lớn thứ 8 trên toàn cầu của Trung Quốc.
Còn theo thống kê của Bộ Công thương, xuất khẩu hàng hóa trong nước sang thị trường này trong năm 2018 đạt 41,3 tỷ USD, tăng 16,6% so với 2017.
Một thuận lợi nữa là Trung Quốc đang tăng cường, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, đặc biệt có nhu cầu lớn đối với các sản phẩm xuất khẩu mà Việt Nam có thế mạnh.
Nông sản Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng sau mỗi năm sang thị trường này. Đơn cử, tổng kim ngạch gạo nhập khẩu của Trung Quốc đạt 1,6 tỷ USD, trong đó kim ngạch gạo nhập khẩu từ Việt Nam đạt 740 triệu USD, chiếm tỷ trọng 45% tổng kim ngạch nhập khẩu gạo của Trung Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả cũng đạt 2,8 tỷ USD, với 9 loại hoa quả được Trung Quốc cho phép nhập khẩu, gồm: Thanh long, dưa hấu, vải thiều, nhãn, xoài, chôm chôm, chuối, mít và măng cụt.
Hiện Việt Nam đang đàm phán với phía bạn xuất khẩu thêm các sản phẩm gồm: sầu riêng, roi, chanh leo, bơ, dừa và na.
Dự báo thời gian tới, với những ưu thế về lợi thế so sánh, vị trí địa lý và nhu cầu của thị trường Trung Quốc với những mặt hàng nông thủy sản có thế mạnh của Việt Nam, nhóm hàng nông thủy sản sẽ tiếp tục duy trì thị phần ổn định tại thị trường Trung Quốc.
TS Đào Việt Anh, Thương vụ Đại sứ Quán Việt Nam tại Trung Quốc cho biết, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc có nhiều thuận lợi như: nhóm hàng nông, lâm, thủy sản được hưởng ưu đãi thuế quan nhập khẩu trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) với mức thuế cơ bản là 0%.
Tuy nhiên, Thương vụ Đại sứ Quán Việt Nam tại Trung Quốc cũng cảnh báo những khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này.
Cụ thể, sản phẩm nông, thủy sản chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN và một số sản phẩm như gạo chịu sự quản lý về hạn ngạch nhập khẩu do Bộ Thương mại và Ủy ban Phát triển Cải cách quốc gia Trung Quốc quy định.
Bên cạnh đó, việc xác minh năng lực doanh nghiệp, đối tác phía Trung Quốc chưa được chú trọng và còn nhiều hạn chế; còn thiếu thông tin tổng thể về thị trường Trung Quốc như: chính sách xuất nhập khẩu, nhu cầu thị trường, hệ thống thương nhân để kết nối và giao dịch. Cùng với đó, một số doanh nghiệp chưa có những người am hiểu tiếng Trung để phục vụ liên hệ, kết nối với các doanh nghiệp Trung Quốc...
“Các doanh nghiệp trong nước khi giao dịch, kinh doanh tại thị trường Trung Quốc cần thông qua hệ thống các Thương vụ, Chi nhánh Thương vụ và Văn phòng Xúc tiến Thương mại tại Trung Quốc và Việt Nam để tìm kiếm các đối tác phù hợp, mọi giao dịch với doanh nghiệp Trung Quốc phải thực hiện bằng hình thức hợp đồng theo thông lệ của thương mại quốc tế với các điều khoản về giao dịch và giải quyết tranh chấp được thống nhất chặt chẽ, có tính ràng buộc cao”, TS. Đào Việt Anh khuyến cáo.
Các doanh nghiệp trong nước cũng nên tìm hiểu các quy định xuất nhập khẩu của Chính phủ Trung Quốc đối với các hàng hóa mà doanh nghiệp có kế hoạch hợp tác, giao dịch, nhất là những sản phẩm như: thực phẩm, nông sản, thủy sản... vì đây là những sản phẩm chịu sự kiểm soát ngặt nghèo về vấn đề kiểm dịch.
Điều cốt yếu để chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, xây dựng thương hiệu; cập nhật thông tin về thị trường, chính sách xuất nhập khẩu cũng như những quy định về chất lượng sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của từng địa phương.