Hàng bán bị trả lại, dấu hỏi lớn với nhiều doanh nghiệp
Với khoản mục hàng bán bị trả lại, trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu thuần, hiệu quả hoạt động của công ty, yêu cầu về tính minh bạch lại càng trở nên chính đáng.

Các khoản giảm trừ doanh thu lâu nay vẫn chưa được chú ý đúng mức. Thông thường đó là những khoản giảm giá hàng bán, kích thích tiêu dùng của khách hàng, đóng góp vào sự tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ.
Gần đây, không ít doanh nghiệp bị giảm trừ doanh thu khá nhiều, và thông thường là các khoản hàng bán bị trả lại.
Những nguyên nhân chính
Ngay cả trong báo cáo bán niên có soát xét, kiểm toán cũng không cung cấp những thông tin về lý do cũng như thực trạng của khoản hàng bán bị trả lại của các doanh nghiệp. Việc hạch toán “hàng bán bị trả lại” thông thường là những trường hợp “bất đắc dĩ” – nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó nên doanh nghiệp tránh được chừng nào hay chừng ấy. Một số nguyên nhân hàng bán bị trả lại được ghi nhận như sau:
1. Hàng hóa đã được giao, nhưng khách hàng không hài lòng và trả lại. Đối với trường hợp này, không phải tất cả mọi trường hợp đều do chất lượng hàng hóa, mà còn có thể do kênh phân phối của doanh nghiệp. Khi xuống đến kênh phân phối cấp dưới, mặc nhiên doanh thu đã được ghi nhận. Thời gian từ lúc đó đến khi đến được tay khách hàng cuối cùng phụ thuộc mức độ hiệu quả của kênh phân phối. Có trường hợp, chưa đến tay khách hàng cuối cùng, hàng hóa đã…hết đát (date: hạn sử dụng) và tất nhiên sẽ bị trả lại. Đây là một trường hợp khá phổ biến trong kinh doanh hàng hóa, thực phẩm…
2. Khách hàng mua hàng đi kèm các cam kết đối với nhà cung cấp, nhưng không thực hiện và nhà cung cấp thu hồi lại hàng hóa, dịch vụ theo đúng thỏa thuận.
3. Đối với các doanh nghiệp bất động sản bán hàng cho khách hàng dưới thỏa thuận góp vốn đầu tư. Khi chưa đến giai đoạn bàn giao nhà, xuất phát từ một trong hai phía, muốn thanh lý hợp đồng, theo đúng nguyên tắc, phải ghi nhận vào khoản hàng bán bị trả lại. Nhưng qua tìm hiểu thực tế cho thấy hầu như không có doanh nghiệp bất động sản nào dễ dàng để trả lại tiền cho nhà đầu tư và hạch toán khoản tiền đó vào khoản mục hàng bán bị trả lại. Thay vào đó, khoản mục này sẽ biến thành “phải trả khác” – khoản mục không yêu cầu quá khắt khe trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Soi vào thực tế
Công ty cổ phần đầu tư và công nghiệp Tân Tạo ( ITA ) đã gây bất ngờ cho các cổ đông khi công bố báo cáo quý 3 với khoản mục hàng bán bị trả lại lên tới 643,7 tỷ đồng, cao hơn tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kỳ.
Giải trình vấn đề này, đại diện ITA cho biết công ty đã thu hồi lại lô đất đã bàn giao cho khách hàng trước đó vì khách hàng trong 365 ngày vẫn chưa triển khai xây dựng đúng như cam kết ban đầu giữa hai bên. Không phải công ty nào cũng có giải trình như vậy với tài khoản giảm trừ doanh thu.
Báo cáo bán niên của SGT ghi nhận khoản hàng bán bị trả lại lên tới 161 tỷ đồng, chiếm 54,7% tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên kiểm toán báo cáo có soát xét cũng như bản thân SGT không đưa ra lưu ý hay bất kỳ ý kiến gì về khoản mục đó. Điều đặc biệt, mặc dù khối lượng hàng bán bị trả lại khá cao, nhưng số dư hàng tồn kho của công ty lại giảm mạnh từ gần 2 tỷ đồng đầu năm xuống còn 697 triệu đồng cuối quý 2/2012 và duy trì con số tương tự đến cuối quý 3/2012.
TDC cũng là doanh nghiệp có tỷ trọng hàng bán bị trả lại khá cao. Cho đến năm 2011, tỷ trọng hàng bán bị trả lại/doanh thu bán hàng của TDC chỉ ở mức 1,25%. Quý 2 và quý 3/2012 tỷ trọng này đã tăng lần lượt đạt 7,7% và 12,7%. Hàng tồn kho cuối quý 3/2012 vì thế cũng tăng gần 26% so với đầu năm. Cũng như SGT, những khoản mục này không được TDC thuyết minh chi tiết.
9 tháng đầu năm 2012, tỷ trọng hàng bán bị trả lại/doanh thu bán hàng của KDH cũng ở mức cao với 7,05%. Quý 3 công ty không có hàng bán bị trả lại, nhưng tỷ trọng này ở báo cáo bán niên lên tới 14%.
Rõ ràng khi có những đột biến trong các khoản mục của báo cáo tài chính, doanh nghiệp cần có những giải trình cụ thể cho nhà đầu tư để tránh những nghi ngại không đáng có. Với khoản mục hàng bán bị trả lại, trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu thuần, hiệu quả hoạt động của công ty, yêu cầu về tính minh bạch lại càng trở nên chính đáng.