Hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản: Nhìn từ thực tế doanh nghiệp
(Tài chính) Hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa quan trọng vào quá trình phát triển của mỗi quốc gia nói chung và đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng. Để làm rõ hơn vấn đề này, tác giả bài viết đi sâu vào nghiên cứu và khảo sát mô hình hoạt động đầu tư của Công ty TNHH một thành viên Khai thác Công trình Thủy lợi Bắc Đuống (tỉnh Bắc Ninh).

Hiệu quả từ đầu tư xây dựng công trình thủy lợi
Công ty TNHH một thành viên khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống (Công ty Bắc Đuống) có nhiệm vụ đầu tư xây dựng, duy tu bảo dưỡng và khai thác các công trình thủy lợi (CTTL) nhằm đảm bảo phục vụ ổn định tưới, tiêu, thoát nước sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh của 3 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố tỉnh Bắc Ninh và 4 xã huyện Đông Anh, một phần diện tích của 2 xã thuộc huyện ngoại thành TP. Hà Nội.
Thời gian qua, hoạt động đầu tư xây dựng của Công ty Bắc Đuống tuy có những bước tiến quan trọng nhưng nhiều trạm bơm được xây dựng từ những năm 70 của thế kỷtrước, qua 40 năm vận hành đến nay đã xuống cấp, hệ thống kênh mương đòi hỏi phải được nâng cấp, cải tạo, đáp ứng hơn nữa nhu cầu tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Vì vậy, Công ty Bắc Đuống luôn chú trọng việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp trong vùng.
Giai đoạn 2008 - 2010, Công ty Bắc Đuống đã làm chủ đầu tư 18 dự án với tổng mức đầu tư là 850.656 triệu đồng. Trong đó, đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng 7 dự án. Cụ thể xây lắp mới và cải tạo 5 trạm bơm (25 máy bơm mới, sửa chữa cải tạo 22 máy bơm cũ, nâng tổng công suất phục vụ từ 16.000 lên 42.840 m3/h); Xây mới 2 dự án kênh mương khoảng 2.775 km, năng lực thiết kế 290 ha. Như vậy, mặc dù không trực tiếp nhưng qua hoạt động đầu tư xây dựng các CTTL, Công ty đã có những đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội, nhất là cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh. So sánh với thời điểm hệ thống các CTTL chưa phát triển như năm 1962 đã thấy rõ hiệu quả và tầm quan trọng của việc đầu tư xây dựng các CTTL đối với sản xuất nông nghiệp.
![]() |
Hiệu quả đối với phát triển kinh tế - xã hội:
- Góp phần quan trọng vào phát triển các ngành sản xuất, đưa tổng giá trị sản phẩn (GDP) của tỉnh có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định: Năm 2008 là 15,64%, năm 2009 là 12,37%, năm 2010 là 16%.
- Tiết kiệm sức lao động cho người tham gia sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp xưa nay vẫn được coi là “lấy công làm lãi” do chi phí chiếm tỷtrọng lớn, giá trị hàng hóa thấp, nhờ đầu tư xây dựng CTTL mà công tát nước được giảm bớt, người dân có thêm thời gian nghỉ ngơi, làm thêm nghề phụ, tăng thu nhập cho gia đình. Niên giám thống kê thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn cho thấy, năm 2008 là 23,6 triệu đồng/ năm, năm 2010 là 30,9 triệu đồng/năm, tốc độ tăng bình quân 14,7%/năm.
- Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn: Xây dựng và khai thác có hiệu quả các CTTL làm tiết kiệm chi phí sản xuất, tạo điều kiện cho việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, từ đó tăng thêm nguồn vốn kiến thiết, góp phần vào thay đổi diện mạo nông thôn. Theo báo cáo của Sở Tài chính, phong trào xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn diễn ra mạnh mẽ, cho đến năm 2010, 126/126 xã phường, thị trấn có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 100% các trường được kiên cố hóa không còn tình trạng học 3 ca, đường giao thông được bê tông hóa đến toàn bộ trục thôn, liên thôn, liên xã; 100% số xã có trụ sở khang trang và nhà sinh hoạt thôn đạt tiêu chuẩn thiết kế mẫu; kênh mương cấp 3 được cứng hóa, ruộng đồng được dồn điền đổi thửa theo tiêu chí nông thôn mới.
- Góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân, xóa đói giảm nghèo: Xây dựng và khai thác có hiệu quả các CTTL giúp bà con nông dân chủ động được nguồn nước tưới tiêu, nâng cao năng suất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Theo số liệu báo cáo của Sở kế hoạch đầu tư, tỷlệ hộ nghèo của tỉnh Bắc Ninh giảm từ 7,72% năm 2008 xuống còn 4,5% năm 2010.
- Hiệu quả xã hội khác: Trong những năm gần đây, các cơ sở hạ tầng trong tỉnh đã phát huy hiệu quả rõ rệt, ngay trên địa bàn Công ty phục vụ không còn diễn ra tình trạng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Hiệu quả đối với Công ty Bắc Đuống:
Với việc đảm bảo ổn định tưới, tiêu thoát nước cho sản xuất nông nghiệp, không để xảy ra hạn hán, úng lụt trong suốt thời gian dài là thành công lớn của Công ty Bắc Đuống. Có được kết quả này là nhờ hệ thống các CTTL được đầu tư xây dựng và khai thác có hiệu quả. Các CTTL được thiết kế hợp lý, thi công đạt tiêu chuẩn, góp phần tiết kiệm, tránh hao phí, tổn thất nước trong quá trình vận hành việc tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, tỷsuất chi phí so với doanh thu mà công ty thực hiện ngày càng tăng, nguyên nhân có nhiều nhưng một phần do các CTTL quy hoạch chưa phù hợp, chất lượng công trình chưa đảm bảo nên mặc dù được đầu tư bổ sung, sửa chữa bảo dưỡng, duy tu thường xuyên nhưng vẫn chưa tiết kiệm được chi phí.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng công trình tại doanh nghiệp
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao là đảm bảo nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, dân sinh và các ngành kinh tế khác trên địa bàn tỉnh, Công ty cần rà soát, khảo sát nhu cầu cung cấp dịch vụ đối với từng khu vực, qua đó, đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Đồng thời, căn cứ quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, Công ty Bắc Đuống cần xây dựng chiến lược phát triển hệ thống thủy lợi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 để quy hoạch và triển khai xây dựng hệ thống các công trình thủy lợi hiện đại đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những căn cứ và cơ sở để thực hiện bao gồm:
Đảm bảo đủ nhu cầu về vốn:
Để khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư, dẫn đến hệ thống các công trình thủy lợi thiếu đồng bộ, công tác thi công bị ngưng trệ, Công ty cần có giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu quả.
Đối với nguồn vốn trái phiếu Chính phủ: Các dự án đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ cần hoàn chỉnh hồsơ đúng thời hạn báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ vốn theo quy định. Trong quá trình triển khai dự án cần đôn đốc bên thi công đẩy nhanh tiến độ, đồng thời nghiệm thu, xác định giá trị khối lượng hoàn thành làm thủ tục thanh toán và đề nghị phân bổ bổ sung vốn.
Đối với nguồn vốn ODA: Căn cứ khả năng nhà thầu và dự kiến tiến độ triển khai dự án, Công ty báo cáo UBND tỉnh thực hiện đăng kí vốn theo quy định, đôn đốc bên thi công đẩy nhanh tiến độ đồng thời nghiệm thu, xác định giá trị khối lượng hoàn thành lập hồsơ thanh toán.
Đối với nguồn vốn ngân sách địa phương: Các công trình thủy lợi chủ yếu được đầu tư bằng nguồn ngân sách địa phương, hàng năm danh mục các công trình do Công ty làm chủ đầu tư khá nhiều nhưng hầu hết đều không đủ nguồn vốn thanh toán, số nợ đọng nhiều dẫn đến nhiều công trình có tiến độ thi công chậm, nhà thầu vừa làm vừa nghe ngóng nguồn vốn thanh toán.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, thi công trước mùa mưa lũ, kịp đưa công trình vào khai thác đảm bảo nước tưới kịp thời vụ, tiêu nước không làm ảnh hưởng đến đời sống và mùa màng thì cần phải có cơ chế ưu tiên bố trí vốn cho các công trình thủy lợi, ngoài ra khi cần xây dựng trạm bơm dã chiến chống hạn hay tiêu lũ khẩn cấp cũng cần bố trí vốn bổ sung để xử lý kịp thời.
Tăng cường công tác quản lý, giám sát, nghiệm thu công trình
Trong xây dựng các công trình thủy lợi, nhất là xây dựng kênh mương thường có mức đầu tư thấp. Trong khi, theo quy định của Luật Đấu thầu thì có thể chỉ định thầu, nên khi đầu tư xây dựng kênh mương dẫn nước rất ít khi chủ đầu tư lựa chọn hình thức đấu thầu rộng rãi. Từ việc gói thầu có giá trị thấp, đối tượng nhận thầu thường do quen biết, các cá nhân, đơn vị có mối quan hệ mật thiết với Công ty “gửi gắm” nên việc lựa chọn nhà thầu thường “thiên vị” thiếu khách quan. Việc làm đó không những không tiết kiệm được qua đấu thầu mà còn xảy ra tiêu cực, làm thất thoát ngân sách. Để đảm bảo khách quan, Công ty cần lập hồsơ mời thầu chặt chẽ, thuê tư vấn xét thầu để lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực chuyên môn; Năng lực tài chính thi công công trình đảm bảo chất lượng và tiết kiệm vốn đầu tư. Trong quá trình lựa chọn nhà thầu cần kiên quyết xem xét, loại bỏ những nhà thầu đã thi công các công trình kém chất lượng, sử dụng vật liệu không đạt tiêu chuẩn, thi công chậm tiến độ.
Đặc biệt, phải thực hiện đúng quy trình, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, thiết kế dự toán; Xây dựng giá chuẩn để làm căn cứ tổ chức đấu thầu một cách hiệu quả. Ngoài ra, chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực, kỹ thuật và tài chính.
Tình trạng thất thoát và lãng phí vốn trong việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước cũng là một trong những vấn đề nan giải trong xây dựng cơ bản nói chung và xây dựng các công trình thủy lợi nói riêng. Do đặc thù các công trình thủy lợi chủ yếu là khối lượng thi công sâu dưới mặt đất nên càng dễ bị gian lận trong việc nghiệm thu, để khắc phục tình trạng này, Công ty cần phải bảo đảm chính xác trong thiết kế, có biện pháp tăng cường công tác giám sát. Cụ thể là:
- Trong thiết kế và lập dự toán, cần có tổ chức chuyên môn (có tư cách pháp nhân, uy tín nghề nghiệp) lập theo tiêu chuẩn của nhà nước ban hành. Lựa chọn những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt; Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; Trình độ chuyên môn cao phù hợp với công việc giám sát để giao trách nhiệm nhiệm giám sát công trình.
- Tổ chức các cuộc kiểm tra thường xuyên và đột xuất để kiểm tra việc thi công tại công trường: Kiểm tra việc thi công theo thiết kế, chủng loại, quy cách vật tư sử dụng. Trực tiếp chọn vị trí kiểm tra; Lấy mẫu kiểm định chất lượng công trình; Kiên quyết chấm dứt hợp đồng với đơn vị thi công kém chất lượng và có biện pháp kỷluật nghiêm với cán bộ giám sát có hành vi dễ dãi trong giám sát, nghiệm thu công trình. Trong trường hợp khi Ban quản lý công trình không có đủ cán bộ giám sát công trình phù hợp thì chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn có đủ điều kiện năng lực giám sát công trình...
Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực
Mặc dù Công ty đã bố trí cán bộ, công nhân phù hợp với chuyên môn nhưng chưa phát triển được hoạt động thi công xây lắp công trình thủy lợi và các công trình dân sinh khác nên doanh thu từ mảng thi công chưa tương xứng với tiềm năng và cơ hội. Do đó, thời gian tới Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn về mặt nhân sự; Trang bị về phương tiện kĩ thuật, công cụ tạo cho bộ phận xây lắp có đủ năng lực cạnh tranh với các đơn vị thi công xây dựng bên ngoài; Đảm đương được công việc của Công ty và mở rộng hoạt động; Khai thác thị trường bên ngoài, tạo đột phá về tăng trưởng doanh thu trong kinh doanh.
Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng các công trình thủy lợi và tiến hành tìm hiểu về thực trạng hoạt động xây dựng các công trình thủy lợi ở Công ty Bắc Đuống, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản ở Công ty Bắc Đuống, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, ổn định đời sống và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh, góp phần đưa công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta thành hiện thực.