Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các trường đại học trên thế giới và bài học đối với Việt Nam

Theo Nguyên Kiều Duyên -Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch/tapchicongthuong.vn

Bài viết trình bày về kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở một số trường đại học khu vực châu Âu, châu Mỹ, và châu Á; phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, các nguồn lực hỗ trợ để tiến hành tự chủ tài chính ở các trường đại học, trong đó nhấn mạnh đến các trường đại học về nghệ thuật, thể thục thể thao công lập, từ đó rút ra bài học và áp dụng mô hình đại học tự chủ ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

1. Đặt vấn đề

Nghị quyết số 77/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thí điểm đổi mới cơ chế cho 23 cơ sở GDĐH (giáo dục đại học) công lập trực thuộc các bộ, ngành trung ương. Mô hình thí điểm cơ chế tự chủ tại các cơ sở GDĐH bước đầu mang lại những kết quả tích cực.

Tuy nhiên, dù đã có rất nhiều văn bản “cởi trói” cho các trường được “thí điểm tự chủ, nhưng do phải tuân thủ Luật Giáo dục đại học 2012, Luật Đầu tư công, Luật Khoa học công nghệ,… nên cơ sở pháp lý về tự chủ đại học còn chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, một số văn bản quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn khi triển khai.

Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học 2012 có mục tiêu cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục đại học, tạo ra sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác, đặc biệt tạo cơ sở pháp lý cho tự chủ đại học, phát huy những kết quả đạt được và khắc phục các hạn chế, bất cập của quá trình thí điểm tự chủ đại học công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ.

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã được Quốc hội thông qua ngày 19/11/2018, có hiệu lực từ ngày 01/7/2019, với 4 nhóm chính sách là: (i) Mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả tự chủ đại học; (ii) Đổi mới quản trị đại học; (iii) Đổi mới quản lý đào tạo; (iv) Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học.

Các quốc gia hiện nay đều coi việc giáo dục, đào tạo nhân lực nhằm bảo vệ và giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ sống còn của mỗi quốc gia. Là một đất nước có kho tàng nghệ thuật phong phú và rất độc đáo, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc giáo dục và đào tạo, nhằm bảo tồn những giá trị truyền thống, phát huy sự đa dạng văn hóa trong khi phải ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế.

2. Một số kinh nghiệm xây dựng cơ chế tự chủ tài chính trong giáo dục đại học ở các nước trên thế giới

2.1. Khu vực châu Âu

Ở châu Âu, tự chủ tài chính của các trường đại học là một trong những quyền được tất cả các quốc gia coi trọng. Chính sách phát triển giáo dục các nước châu Âu có xu hướng tăng ngân sách công cho giáo dục đại học; đảm bảo quyền tự chủ hơn về tài chính; phát triển liên kết giữa tài trợ và kết quả đạt được; khuyến khích đa dạng hóa các nguồn tài trợ và quan hệ đối tác; giảm vai trò quản lý nhà nước.

Hiệp hội Đại học châu Âu (EUA) là tổ chức đại diện của các trường đại học và các hội nghị hiệu trưởng quốc gia trong 47 nước châu Âu. Hiệp hội có nhiệm vụ đánh giá cơ chế thực hiện tự chủ của các trường đại học của các quốc gia thành viên về tổ chức, học thuật và tài chính. Để đánh giá xếp hạng mức độ thực hiện tự chủ giữa các trường đại học của các quốc gia EUA đã xây dựng một bộ khung công cụ tập trung vào bốn lĩnh vực quyền tự chủ tổ chức, học thuật, nhân sự và tài chính.

Năm 2010, EUA đã công bố kết quả điều tra hiện trạng thực hiện cơ chế tự chủ của 29 nước châu Âu, gồm có: Áo, Brandenburg, Cyprus, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Flanders, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Hesse, Hungary, Iceland, Ireland, Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Hà Lan, North Rhine -Westphalia, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh.

Báo cáo cho thấy rằng các trường đại học châu Âu nhận được một tỷ lệ quan trọng trong các quỹ của họ từ nguồn tài trợ nhà nước. “Báo cáo hệ thống giám sát giáo dục nghệ thuật” (Arts Education Monitoring System (AEMS) Final Report, do Viện Nghiên cứu Chính sách văn hóa và Quản lý văn hóa (EDUCULT) thực hiện dưới sự tài trợ của Liên minh châu Âu, xuất bản 2013) cho thấy nguồn tài trợ của nhà nước (cấp chính phủ và các địa phương) chiếm tỷ lệ rất lớn trong phát triển giáo dục nghệ thuật các bậc đào tạo ở các nước Áo, Hungary, Đức, Tây Ban Nha và Anh.

Tất cả các nước thành viên EU cung cấp tài trợ cho thể thao ở các cấp độ khác nhau (quốc gia, vùng, địa phương/thành phố) và có thể có các hình thức khác nhau. Thông thường, chi tiêu chính phủ trung ương về thể thao là thấp hơn so với số tiền đến từ chính phủ các nước trong khu vực và địa phương, hầu hết là tài trợ cho các cơ sở thể dục thể thao cấp địa phương. Trong khi một số tổ chức thể thao là hoàn toàn tự chủ, đối với hầu hết số trường còn lại cần thiết phải được nhận sự hỗ trợ từ nhà nước. Khi hỗ trợ tài chính khu vực EU, các quốc gia thành viên cần phải có tuân thủ quy tắc viện trợ của EU.

Dưới đây là một số ví dụ thực hiện cơ chế tự chủ đại học ở các quốc gia châu Âu:

(i) Trường hợp Vương quốc Anh:

Theo bảng xếp hạng tự chủ giáo dục đại học của các nước châu Âu, Vương quốc Anh xếp hạng thứ 1 trong tự chủ về tổ chức; thứ 3 về tự chủ tài chính; thứ 2 về tự chủ biên chế, nhân sự và thứ 3 về tự chủ học thuật.

Các trường đại học ở Vương quốc Anh là có quyền tự trị cao. Anh đứng giữa 3 quốc gia hàng đầu và là một phần của nhóm "cao" của hệ thống giáo dục đại học trong tất cả 4 lĩnh vực quyền tự chủ tổ chức. Các trường đại học Anh có thể tự do quyết định về tất cả các khía cạnh của quyền tự chủ tổ chức, bao gồm cả việc lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và nhiệm kỳ của người đứng đầu điều hành, việc bổ nhiệm các thành viên bên ngoài cho các cơ quan quản lý trường đại học, việc tạo ra các pháp nhân và cơ cấu nội bộ của khoa, các phòng ban.

- Trường hợp Cộng hòa Pháp:

Pháp nằm ở phía trên cùng của nhóm "thấp trung bình" của các nước có cơ chế đại học tự chủ về tổ chức (xếp hạng 17), tài chính (xếp hạng 23) và biên chế (xếp hạng 28), và trong nhóm "thấp" cho quyền tự chủ trong học tập (xếp hạng 29). Pháp thực hành một hệ thống tuyển sinh miễn phí cho sinh viên đầu tiên chu kỳ. Đối với sinh viên theo học chương trình cao học, tiêu chí lựa chọn có thể được thiết lập bởi các trường đại học. Tất cả các chương trình phải được công nhận bởi các cơ quan và các khóa học ở cấp độ cử nhân chỉ có thể được dạy bằng tiếng Pháp, mặc dù có những ngoại lệ. Các trường đại học Pháp có quyền tự do để thiết kế nội dung chương trình đào tạo của mình.

Những cải cách giáo dục đại học được thực hiện tại Pháp từ năm 2007 đã tăng quyền tự chủ cho các trường, cung cấp cho sự phát triển các năng lực mới, chẳng hạn như quản lý và kỹ năng lãnh đạo, cần thiết cho việc thực hiện thành công cơ chế tự chủ đại học.

- Trường hợp Nhà nước liên bang Đức Brandenburg:

Nhà nước liên bang Đức Brandenburg được đánh giá là "trung bình thấp" trong quyền tự chủ tổ chức (xếp hạng 16), tài chính (xếp hạng 25) và nhân sự (xếp hạng 23). Tự do liên quan đến các vấn đề học thuật với được đánh giá là "cao trung bình" (xếp hạng 13). Quy định về tuyển dụng giảng viên cao cấp tồn tại trong đại học Đức, mặc dù chính phủ nhà nước có thể ban hành các quy chế cụ thể cho phép Chủ tịch trường đại học thực hiện quá trình tuyển dụng độc lập. Tiền lương cho đội ngũ giảng viên cao cấp có thể khác nhau giữa các nhân viên hợp đồng thuê trước và sau năm 2002. Mặc dù Đức công nhận chương trình bắt buộc trong đào tạo bậc cử nhân và thạc sĩ, các trường được tự do lựa chọn nhà cung cấp đảm bảo chất lượng từ danh sách của các cơ quan được công nhận trên toàn quốc.

- Trường hợp Liên bang Nga:

Giáo dục ở Liên bang Nga đã có sự cải cách mạnh mẽ nhằm mở rộng tinh thần chịu trách nhiệm của các chính quyền địa phương và nhà trường trên các lĩnh vực tài chính, chương trình, việc thành lập và lựa chọn nhà trường. Hệ thống giáo dục mới rất khác so với thời Xô-viết. Nhìn chung, sự tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học ở Liên bang Nga liên quan tới sự phân quyền hóa và tư nhân hóa. Tính tự chủ được đề nghị theo kiểu: tự chủ hoàn toàn, hoặc tự chủ một phần trong vòng kiểm soát của chính quyền liên bang hoặc chính quyền bang.

Càng tăng tính tự chủ cho các trường đại học, các trường càng được phép thiết lập chính sách, các chương trình và sử dụng tiền một cách hợp lý. Nhưng, với chính sách phân quyền hóa, các trường đại học lại có thể sử dụng sự ưu ái này đưa ra các quyết định ảnh hưởng tới chính sách chung về hệ thống giáo dục đại học của cả nước. Tính tự chủ của các trường đại học được xem xét ở một số khía cạnh sau: Hiệu trưởng được bầu cử bởi đại diện các khoa, nhân viên và sinh viên; Các nghị sĩ là thành phần cơ bản và quan trọng trong cơ cấu tổ chức của trường đại học; Một số bộ phận trong trường được thiết lập theo quy định của pháp luật; Lương cơ bản được quy định bởi chính phủ và theo luật lao động, có thể được cấp thêm bởi ngân quỹ của trường; Phân phối ngân quỹ được quyết định bởi trường đại học.

Tuy nhiên, vẫn không có sự phân phối lại về các nguồn như:  lương, thuế hoặc học bổng cho sinh viên; Nguồn kinh phí từ các tổ chức phi chính phủ, học phí, kết quả chuyển giao công nghệ và dịch vụ…; Chương trình học được thiết kế bởi các khoa; Số lượng sinh viên của các trường đại học thuộc bang được quy định bởi mỗi bang cho các trường đại học; Số sinh viên phải đóng học phí được quy định bởi mỗi trường; Các cuộc thi tuyển đầu vào được công nhận bởi các trường đại học; Bằng cấp vẫn được cấp chủ yếu bởi nhà nước, bang hơn là các trường đại học; Bằng cấp ngày càng được đạt tới gần tiêu chuẩn châu Âu và Bắc Mỹ.

2.2. Khu vực Bắc Mỹ

- Trường hợp Hoa Kỳ:

Hoa Kỳ là quốc gia có hệ thống giáo dục đại học phức tạp vì sự đa dạng trong chính sách của liên bang, của từng bang, từng địa phương. Cũng giống như các nước châu Âu, các trường đại học ở Hoa Kỳ hiện nay có nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các mặt tổ chức, biên chế, nhân sự, học thuật và tài chính.

Hoa Kỳ không có một hệ thống giáo dục quốc gia trừ các học viện quân sự. Ở Hoa Kỳ, mỗi bang đều có đại học công lập của riêng bang với nhiều quy mô khác nhau. Trong số hơn 4.000 trường đại học ở Mỹ, 8 trường đại học tư danh tiếng ở vùng đông bắc gọi là "Ivy League" được coi là những trường có uy tín lừng lẫy nhất.

Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp tài chính cho cả đại học công và tư; có những quy định nhất định về việc giám sát và sử dụng nguồn tài chính này được áp đặt cho các trường. Cả trường công và trường tư đều thu học phí, tuy vậy mức thu khác nhau khá xa từ vài trăm USD mỗi khóa đến 45,000 USD một năm ở các trường tư hàng đầu của nước Mỹ.

Ngân sách của các trường đại học Mỹ dựa trên ba nguồn chính: học phí của sinh viên, quỹ hiến tặng do các nhà hảo tâm đóng góp, và ngân sách của chính phủ liên bang, của bang, hoặc của địa phương. Các trường đại học đóng vai trò quản lý nhà nước đối với giáo dục, bao gồm cả xây dựng quy chế tuyển sinh, xác định chương trình khung, thậm chí kiểm soát cả chỉ tiêu sinh viên từng trường được quyền nhận hàng năm. 

Cơ cấu quản lý của trường đại học Mỹ gồm Hội đồng Trường, Hiệu trưởng, các nhà quản lý cao cấp, các khoa, cán bộ nhân viên và sinh viên. Đại học Mỹ vẫn đang nằm dưới sự kiểm soát mạnh mẽ của Ban quản trị. Ở Mỹ, chương trình đào tạo được điều chỉnh nhằm đáp ứng những tiêu chuẩn của kiểm định. Tuy vậy, cán bộ giảng dạy được dành một quyền hạn nhất định để làm mới nội dung giảng dạy của mình và họ thường định đoạt điều này một cách thích hợp. Về cách tổ chức đào tạo, ở Mỹ đã thực hiện việc đào tạo theo tín chỉ từ lâu. Đại học Harvard là trường đại học đầu tiên cho phép sinh viên được chút ít quyền tự chọn môn học từ năm 1885 và ngày nay hệ thống đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng hầu như ở tất cả các trường đại học ở Mỹ.

2.3. Khu vực châu Á

Trong các nước ở châu Á, Hàn Quốc và Nhật Bản đang nổi lên là những nước đi đầu trong cải cách tự chủ đại học. Điều đáng nói là cách đây không lâu, hai nước này vẫn nằm trong nhóm nước có nền giáo dục đại học bị hạn chế mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của Nhà nước.

- Trường hợp Hàn Quốc:

Hàn Quốc đạt được nhiều thành công trong phát triển giáo dục đại học mặc dù nước này vốn có nền giáo dục truyền thống bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhà nước. Tỉ lệ đầu tư cho giáo dục đại học của Hàn Quốc đạt 2.6 % GDP, chỉ đứng sau Hoa Kỳ (2.9 %) trong số các nước thuộc OECD vào năm 2003. Đặc biệt từ năm 1999 đến năm 2012, Chính phủ Hàn Quốc đã chi riêng 3.4 tỉ USD cho chương trình quốc gia “Trí tuệ Hàn Quốc thế kỷ 21 - Brain Korea 21) nhằm thúc đẩy đào tạo sau đại học và nghiên cứu trong các trường đại học.

Đến năm 1995, Hàn Quốc đã chính thức cải cách hoàn toàn cơ chế quản lý xin - cho và tập quyền để dứt khoát trao quyền tự chủ cho các trường, với những nội dung cơ bản như sau: Đa dạng hóa và chuyên sâu hóa hệ thống giáo dục đại học; Đa dạng hóa các tiêu chí cho phép thành lập các trường đại học tư thục; Trao quyền tự chủ cho các trường quyết định chỉ tiêu tuyển sinh và quản lý trường; Tạo hệ thống hỗ trợ đặc biệt cho nghiên cứu khoa học; Gắn kết chặt chẽ giữa đánh giá chất lượng của trường đại học với hỗ trợ tài chính từ Chính phủ.

Để có được sự dứt khoát đoạn tuyệt với chính sách quản lý cũ, Hàn Quốc tiến hành cải cách thiết chế đại học. Từ năm 1982, Hiệp hội các trường đại học Hàn Quốc được thành lập (Korean Council for University Education - KCUE). Hiệp hội này nhằm thúc đẩy nghiên cứu, hợp tác giữa các trường, và đánh giá, kiểm định chất lượng.

Năm 1987, cùng mới quá trình dân chủ hóa nền chính trị Hàn Quốc, Bộ Giáo dục đã đề ra Kế hoạch Tự chủ hóa các trường đại học (University Autonomization Plan).

Có hai cơ chế nổi bật trong cải cách giáo dục đại học của Hàn Quốc nhằm đảm bảo trách nhiệm xã hội của các trường khi được giao toàn quyền tự chủ. Một là. gắn đánh giá chất lương giáo dục (bằng một cơ quan kiểm định độc lập) với hỗ trợ tài chính từ chính phủ; hai là, quy định rõ việc thành lập hội đồng trường và điều lệ trường nhằm giám sát hoạt động của các trường.

Cùng với việc mở rộng đại học cho đại chúng, Hàn Quốc cũng cố gắng xây dựng các đại học elite, đại học đặt nặng về nghiên cứu khoa học, và cho đến nay hai "hệ thống" đại học này song hành và bổ sung cho nhau. Thật ra, trong những năm sau này, hệ thống giáo dục đại học của Hàn Quốc có mô hình theo hệ thống của Mĩ gần như tuyệt đối. Những chương trình như World Class University (đại học đẳng cấp quốc tế), Humanity Korea, Social Science Korea, v.v... đã được triển khai từ đầu năm 2000 và đem lại nhiều thành tựu đáng nể như đã nói ở trên. Còn nghiên cứu khoa học xã hội của Hàn Quốc từ con số gần 0 ngày nay đã chiếm gần 4% tổng số ấn phẩm khoa học của Hàn Quốc.

- Trường hợp Nhật Bản:

Khác với con đường xây dựng tự chủ tài chính ở các trường đại học Hàn Quốc, Nhật Bản là quốc gia có nhiều ý tưởng độc đáo trong phát triển cơ chế tự chủ đại học.

Hệ thống giáo dục đại học hiện đại của Nhật Bản được hình thành từ cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của Đại học Tokyo (sau này được gọi là Đại học quốc lập Tokyo) vào năm 1887. Trước Chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống giáo dục đại học Nhật Bản mang đặc trưng của hệ thống quản lý hành chính - tập trung (tuy không hoàn toàn).

Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ 20 quy mô giáo dục đại học Nhật Bản đã tăng mạnh, mở đầu cho quá trình đại chúng hóa giáo dục đại học. Đây là cuộc cải cách sâu rộng nhất về giáo dục kể từ sau khi kết thúc thế chiến II. Năm 1984, Hội đồng cải cách giáo dục được thành lập và sau đó đến 1987 là Ủy ban đại học trực thuộc Thủ tướng Nhật Bản đã được thành lập. Ủy ban giáo dục đại học đã đưa ra những khuyến cáo về cải cách giáo dục đại học nhằm đáp ứng những biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội Nhật Bản hiện đại và môi trường quốc tế.

Đến năm 2001, Ủy ban giáo dục đại học đã đề xuất các "Chính sách cải cách cơ cấu giáo dục đại học công lập" với mục tiêu tăng cường tính năng động và khả năng cạnh tranh quốc tế của các đại học công với các biện pháp cơ bản.

Năm 2002, Luật Giáo dục nhà trường sửa đổi đã cho phép các nhà trường linh hoạt hơn trong việc cải tổ cơ cấu tổ chức và quản lý các khoa và đơn vị nghiệp vụ cùng với hệ thống đánh giá 3 bên được triển khai (Nhà trường - Nhà nước - Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp). Theo Luật này, nhà trường đại học được tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo Luật định việc cấp các văn bằng, chứng chỉ các chương trình đào tạo của nhà trường, giảm bớt việc quản lý trực tiếp của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (MEXT) trong vấn đề này.

Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của công cuộc cải cách giáo dục đại học ở Nhật Bản trong những năm vừa qua và đang tiếp tục trong giai đoạn hiện nay là tập đoàn hóa các đại học công lập. Quá trình này được thực hiện với mục tiêu tăng cường tính độc lập, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đại học công lập, áp dụng mô hình quản lý kiểu doanh nghiệp (busness model) trong quản trị đại học.

3. Một số bài học kinh nghiệm của thế giới đúc rút cho Việt Nam và mô hình tự chủ của Việt Nam hiện nay

Trong nhiều năm qua, giáo dục đại học Việt Nam phát triển chủ yếu theo Mô hình giáo dục đại học công lập miễn phí hoặc với học phí thấp (Expansion of a public sector charging little or no tuition fees). Tuy  nhiên, sự phát triển của hệ thống đại học ngoài công lập trong thập niên vừa qua đã góp phần không nhỏ trong việc chia sẻ bớt nguồn lực Nhà nước dành cho giáo dục đại học theo Mô hình mở rộng hệ thống đại học tư (Expansion of a private sector of institutions).

Trong vài năm gần đây, sinh viên được vay tiền Nhà nước để trang trải chi phí học tập theo Mô hình chi phí đại học được hoàn trả sau khi sinh viên tốt nghiệp (Publicly financed fees repaid through the tax system once students graduate). Nhà nước cũng đang nghiên cứu khả năng tăng học phí đại học kết hợp với mở rộng hệ thống chính sách hỗ trợ cho sinh viên theo Mô hình gia tăng học phí kết hợp với mở rộng các chính sách hỗ trợ (Increased cost sharing combined with higher levels of student aid).

Như vậy, giáo dục đại học của Việt Nam đã, đang và sẽ triển khai theo cả 4 mô hình nói trên. Vấn đề là chúng ta nên chọn ưu tiên phát triển theo mô hình nào tương ứng với từng giai đoạn phát triển, và với mỗi mô hình cần lưu ý đến những vấn đề gì để sự phát triển có tính bền vững và đạt hiệu quả cao (Lê Văn Hảo “Mô hình phát triển tài chính đại học”- Tạp chí Tia sáng ngày 04/9/2008). 

Xem xét kinh nghiệm xây dựng cơ chế tự chủ và quản lý, sử dụng tài chính của các trường đại học tự chủ trên thế giới, chúng ta nhận thấy rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia trên thế giới về tỉ trọng giữa các nguồn lực nhà nước và tư nhân mà các trường nhận được. Ở Việt Nam, nguồn tài chính chủ yếu của các trường là do Nhà nước cung cấp, dưới hình thức hỗ trợ của chính phủ; học phí và các nguồn hỗ trợ tư nhân khác thì không đáng kể hoặc không hề có.

Mặc dù có nguồn vốn đa dạng, song ở nhiều nước phát triển, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước vẫn là những nguồn lực lớn nhất của các trường đại học. Bên cạnh đó, các trường đại học ở khắp nơi trên thế giới phụ thuộc vào nhiều nguồn tài chính tư nhân khác nhau để trang trải các hoạt động và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, hạ tầng. Những nguồn tài chính này gồm có: học phí, quà tặng dưới nhiều hình thức của các tổ chức từ thiện, thu từ các hoạt động dịch vụ, thương mại hóa các nghiên cứu do trường tổ chức thực hiện và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân. Việc xây dựng cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường đại học đặt ra không ít câu hỏi về vấn đề quản lý và sử dụng nguồn tài chính này.

Hiện nay, có ý kiến tranh luận là khi thực hiện những nghiên cứu ở các trường, nguồn cung cấp tài chính nên được tách riêng khỏi nguồn tài chính cho giảng dạy hay được cung cấp tài chính theo từng dự án, và giao về cho các trường tự quyết định phân bổ. Một vấn đề khác nữa là các trường đại học có nên dùng nguồn thu từ học phí để chi trả cho việc nghiên cứu và các hoạt động liên quan hay không, kể cả chi gián tiếp cho đào tạo sau đại học.

Ở một số nước, ngày càng nhiều các dự án nghiên cứu do các trường đại học tự chủ thực hiện đang được các công ty tư nhân cung cấp tài chính nhằm được chia sẻ lợi ích từ những khám phá trong nghiên cứu cơ bản cũng như trong nghiên cứu ứng dụng. Điều này có thuận lợi là làm tăng nguồn lực tài chính cho việc nghiên cứu của các trường; giảm mức độ phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, điều này làm nảy sinh những câu hỏi về mặt đạo đức liên quan đến quyền của các tổ chức tư nhân trong việc xác lập những ưu tiên trong nghiên cứu ở các trường đại học.

Ở Việt Nam hiện nay, hình thức phân bổ ngân sách chủ yếu phụ thuộc yếu tố phân bổ có tính chất lịch sử/chính trị và cung cấp tài chính dựa trên các công thức. Hình thức phân bổ tài chính dựa trên kết quả hoạt động ít được coi trọng.

Ngoài việc dùng những công thức phân bổ tài chính, nhiều quốc gia thực hiện một phần hỗ trợ của nhà nước dưới hình thức các quỹ có tính chất vô điều kiện và được cấp phát qua cạnh tranh. Những hỗ trợ vô điều kiện điển hình là các khoản tài trợ để đáp ứng những đề xuất của các trường hoặc cá nhân các giảng viên, thường nhằm mục đích khuyến khích nâng cao chất lượng hoặc cải tiến hoạt động của trường.

Ngân hàng Thế giới (WB) là một lực lượng chủ chốt trong việc xúc tiến đẩy mạnh các quỹ cạnh tranh ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Nam Mỹ (Argentina, Bolivia và Chile) và Đông Âu (Bulgaria và Hungary). Lý do căn bản khiến WB đẩy mạnh các quỹ này là vì phương thức hoạt động của nó cho phép một mức độ linh hoạt cao hơn nhiều trong việc đáp ứng nhu cầu của những mục tiêu đang được nhắm đến, so với những công thức cấp phát tài chính truyền thống hay những chương trình cung cấp tài chính vô điều kiện nhằm giúp một số loại trường nào đó.

Kinh nghiệm các nước cho thấy vấn đề thuế trong sử dụng nguồn lực nhà nước cần phải được coi trọng đúng mức. Thuế được coi là một hình thức hỗ trợ giáo dục đại học của nhà nước. Những chính sách dựa trên các quy định về thuế bao gồm miễn thuế đối với các khoản đóng góp có tính chất từ thiện cho nhà trường, các khích lệ miễn giảm hoặc ưu đãi thuế đối với các công ty hoặc tổ chức thực hiện các dự án nghiên cứu trong phạm vi trường đại học, cũng như đối với các hoạt động có tầm quan trọng đối với địa phương hoặc đối với quốc gia do trường đại học thực hiện.

Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách thuế đối với các trường đại học công có thể sẽ làm giảm sút tiềm năng đối với việc cung cấp tài chính cho giáo dục đại học và những tổ chức phi lợi nhuận khác do nhà nước không thu được thuế và có thể tạo ra sự bất bình đẳng giữa trường công lập và tư nhân.

Một đặc điểm khác của quá trình xây dựng cơ chế tự chủ tài chính cho các trường là giải quyết thỏa đáng vấn đề học phí. Học phí ở hầu hết các nước tiêu biểu cho nguồn thu từ tư nhân lớn nhất của giáo dục đại học. Nó cũng tiêu biểu cho điểm gặp nhau gần như trực tiếp giữa những lực lượng cung và cầu trong cán cân tài chính. Xét về nguồn cung, học phí và hỗ trợ của ngân sách nhà nước đối với các trường là hai nguồn chính trang trải cho hoạt động của các trường công.

Đối với các trường tư, phi lợi nhuận, học phí là nguồn thu chính, cùng với quỹ hiến tặng, tài trợ, các khoản thu từ dịch vụ khác là các nguồn bổ sung. Ở các trường vì lợi nhuận, học phí là nguồn thu cơ bản. Cho nên, học phí ở tất cả các loại trường đều có thể dùng để xác định quy mô của trường thông qua khả năng đón nhận đào tạo sinh viên mà trường ấy có khả năng cung cấp.

Với trường công, học phí thường là một nguồn tài chính nhỏ hơn so với trường tư, vì ở hầu hết các nước, hỗ trợ của nhà nước đối với giáo dục đại học còn vượt xa những nguồn thu phát sinh trong các trường tư. Một vấn đề đặt ra ở đây là Nhà nước cần xây dựng mức học phí dựa trên cơ sở nào: Theo tỉ lệ phần trăm của chi phí trên đầu sinh viên hay mức học phí mà các trường cùng loại, cùng cấp hiện đang thu?; hay dựa vào những chỉ số kinh tế tổng quát, chẳng hạn như GDP trên đầu người hoặc thu nhập bình quân của dân trong vùng?

Có một sự khác nhau rất lớn trên thế giới về mức thu học phí giữa các trường công và tư. Ở hầu hết các nước, trường công không thu học phí, hoặc thu học phí ở mức rất thấp trong khi những thay đổi về học phí ở các trường tư có xu hướng gắn với những thay đổi của điều kiện thị trường, như sự cạnh tranh với trường công, xu thế của các nguồn thu khác từ tư nhân như các quỹ hiến tặng hay quyên góp, và sự gia tăng chi phí trong thực tế khi các trường tăng thêm những trợ giúp tài chính cho sinh viên. Có một số ý kiến cho rằng, mức học phí khác nhau có thể dẫn đến sự bất bình đẳng trong giáo dục đại học giữa các trường.

Cũng như trường hợp mức thu học phí và việc giữ lại học phí, có rất nhiều kiểu cơ cấu học phí khác nhau. Các trường sẽ lựa chọn cơ cấu học phí nào khi mà có tới 4 loại cơ cấu học phí như: 

- Học phí truyền thống: Cơ cấu học phí áp dụng ở hầu hết các nước là các trường tự thu học phí trực tiếp do sinh viên và gia đình của họ đóng. Mức phí có thể giống nhau đối với mọi sinh viên, và cũng có thể khác nhau tùy theo ngành học hoặc bậc học (ví dụ: bậc cao học đóng tiền nhiều hơn bậc đại học). Nhưng đặc điểm chung ở đây là lãnh đạo nhà trường quyết định mức thu, cũng như tổ chức thu, giữ lại và sử dụng học phí cho hoạt động của nhà trường.

- Học phí do nhà nước cấp: Ở một số nước, chính phủ thay mặt sinh viên thanh toán học phí và thu lại số tiền này từ sinh viên qua hệ thống thuế sau khi họ tốt nghiệp và có việc làm. Australia là một ví dụ của cách làm này, áp dụng từ thập kỷ 80 như một cách để bù đắp chi phí mà không tạo áp lực học phí với sinh viên khi họ bắt đầu vào học. 

- Học phí song song: Một phương thức khác mà phần lớn sinh viên có thể chỉ phải trả một mức tương đối thấp là nhà nước bao cấp một phần đối với những sinh viên không đủ tiêu chuẩn để được miễn học phí. Học phí song song là cách các trường dùng để có thêm nguồn thu; họ giữ lại các khoản thu này trong khi nhà nước quản lý nguồn thu học phí của những sinh viên trong chỉ tiêu ngân sách cấp cho trường. Cơ chế này thường được áp dụng ở các nước Đông Âu.

Gần đây có xu hướng phát triển loại cấu trúc học phí hai bậc, nghĩa là phần lớn sinh viên sẽ trả học phí theo mức đã được nhà nước bao cấp phần lớn, một số chỗ ngồi khác sẽ được trả học phí theo mức thị trường. Kiểu học phí này được thực hiện ở Hoa Kỳ từ lâu; ở các nước khác, sinh viên nước ngoài phải trả học phí cao hơn sinh viên bản xứ. Một ví dụ của cơ cấu này là ở Australia, khi học phí của hầu hết sinh viên là do nhà nước chi trả trong khi tất cả sinh viên nước ngoài đều phải trả mức học phí cao hơn và trả trước mỗi năm học.

Việc xây dựng cơ chế tự chủ của các trường đại học của các nước cũng nhằm bao gồm cả việc giải quyết vấn đề hỗ trợ sinh viên. Liệu các trường có nên, và bằng cách nào, dùng nguồn thu từ học phí và các thứ dịch vụ có thu khác để hỗ trợ tài chính cho một số sinh viên? Đây là những câu hỏi mà nhiều trường đại học đã đưa ra thảo luận khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính.

Thông thường vấn đề tự chủ về sử dụng nguồn tài chính kết hợp giữa ngân sách, học phí và những chính sách hỗ trợ sinh viên được các nước hết sức chú trọng. Các nhà hoạch định chính sách ở nước nào cũng phải xem xét liệu ngân sách nhà nước cấp cho các trường và học phí có nên đồng nhất giữa các trường hay nên được phân biệt đối xử khác nhau. Điều gì sẽ xảy ra với ngân sách được cấp để đáp ứng sự thay đổi về học phí nếu có? Khi học phí tăng, khoản hỗ trợ mà các trường nhận của nhà nước sẽ như thế nào? Những quan ngại về mối liên hệ giữa tăng học phí và nâng mức hỗ trợ sinh viên tập trung vào ba vấn đề sau:

Một là, cần dựa vào tín dụng sinh viên hơn là tài trợ để giải quyết việc tăng học phí. 

Hai là, khoản hỗ trợ được cung cấp, dù là dưới hình thức tài trợ không hoàn lại hay tín dụng, nói chung vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu tài chính ngày càng tăng do mức tăng của học phí. 

Ba là, học phí thường là tăng trước khi các chương trình hỗ trợ sinh viên kịp thời điều chỉnh theo, làm tăng thêm số sinh viên cần được giúp đỡ và làm tăng mối lo lắng của họ về việc không có đủ nguồn tài chính đáp ứng cho việc tăng học phí.

Ở nhiều nước, các trường đại học có quyền sở hữu, bán tài sản công trình xây dựng hoặc dễ dàng sử dụng liên doanh, liên kết nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ đào tạo có chất lượng. Việc pháp luật thừa nhận quyền sở hữu đất đai, tài sản của các trường đại học cho phép mang lại một nguồn lực lớn, đảm bảo cho các trường chủ động trong chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, một số nước có nền giáo dục tiên tiến (như các nước châu Âu) vẫn còn hạn chế một phần hoặc không cho phép các trường có quyền bán tài sản của mình.

Quá trình xây dựng cơ chế tự chủ tài chính ở các trường đại học của các nước thành công cải cách giáo dục luôn có sự kết hợp chặt chẽ với quá trình xây dựng hệ thống luật pháp, cải cách thể chế giáo dục theo hướng tăng cường phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Cải cách thể chế giáo dục đại học ở các nước trên không diễn ra một cách ồ ạt, dập khuôn máy móc mà luôn có sự thận trọng, sáng tạo, đầu tiên là xây dựng mô hình thí điểm, sau đó bổ sung sửa đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước rồi mới tiến hành áp dụng một cách rộng rãi.

Trong khi tiến hành cơ chế tự chủ tài chính, các trường đại học ở các nước tiên tiến trên thế giới tiến hành đồng thời đổi mới cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế và nhiệm vụ. Sự đồng bộ về đổi mới quyền tự chủ thể chế đại học trên đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thành công của các trường đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính mang lại.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Giáo dục- Đào tạo (2009), “Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014”.
  2. Lê Văn Hảo (2008), “Những xu thế chung của giáo dục đại học và các mô hình phát triển tài chính đại học”, Kỷ yếu Hội thảo “Giáo dục So sánh lần 2: Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” năm 2008.
  3. Nguyễn Thiệu Tống (2001), “Tự chủ đại học bao gồm tự chủ tài chính”, Tham luận Hội thảo “Quản lý nhà nước và tự chủ tài chính trong các trường đại học” năm 2001.
  1. Nguyễn Văn Khôi (2009), “Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở Trường đại học Sư phạm Hà Nội”, Tham luận Hội thảo khoa học "Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở các trường đại học và cao đẳng Việt Nam" năm 2009.
  2. Baker, D. P & Wiseman W. (2008), The worldwide transformation of higher education. (Sự chuyển đổi mạng lưới toàn cầu của giáo dục đại học). (ed). Emerald JAI Press: UK.
  3. Báo cáo của Ủy ban về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học thuộc Ban tư vấn Trung ương về giáo dục Ấn Độ - năm 2005”.
  4. Su Yan Pan (2009), “Tự chủ đại học, nhà nước và những thay đổi xã hội ở Trung Quốc”, Đại học Hồng Kông xuất bản năm 2009.