Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tích cực, dù thách thức cũng không nhỏ
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu trở nên kém khả quan và khó đoán định hơn trước, các đối tác phát triển, cộng đồng DN, nhiều chuyên gia và tổ chức nước ngoài vẫn có góc nhìn tích cực về kinh tế Việt Nam.
Tăng trưởng tích cực, vĩ mô ổn định
“Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chứng tỏ sự vững vàng cho dù có những trở lực từ bên ngoài, chủ yếu nhờ vào sức cầu mạnh trong nước kết hợp với sự năng động của các ngành chế biến, chế tạo theo định hướng xuất khẩu”. Đây chỉ là một trong những nhận định được đưa ra trong báo cáo “Điểm lại”, một ấn phẩm bán thường niên cập nhật kinh tế Việt Nam của WB công bố chiều ngày 11/12/2018.
“Cho dù bối cảnh toàn cầu có nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục đạt tăng trưởng vững, song song với lạm phát ở mức vừa phải và tỷ giá tương đối ổn định”, ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nói tại buổi họp báo về báo cáo này. Chia sẻ kỹ hơn, vị Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cho biết, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam có thể đạt mức 6,8%, thậm chí cao hơn trong năm nay. Đây là một mức tăng trưởng ấn tượng cho một nền kinh tế mới nổi và có mức thu nhập trung bình thấp như Việt Nam, đặc biệt khi xét trong bối cảnh thế giới thay đổi với nhiều bất định hơn hiện nay.
“Nếu nhìn lại về những gì Việt Nam đã làm được thì tôi không chỉ ấn tượng về mức tăng trưởng 6,8%, mà tất cả các yếu tố vĩ mô cơ bản khác cũng rất vững chắc. Như lạm phát tiếp tục được duy trì ở mức thấp; nhu cầu tiêu dùng trong nước mạnh; sản xuất và xuất khẩu tốt… Tất cả những yếu tố đó giúp cho năm nay kinh tế Việt Nam tiếp tục có được thành công quan trọng và ấn tượng”, ông Ousmane Dione nói.
Báo cáo Điểm lại cũng cho biết, mức tăng trưởng dự báo 6,8% của Việt Nam cho năm nay cao hơn mức 6,3% mà WB dự báo cho các thị trường mới nổi ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Nhìn về trung hạn, báo cáo dự báo tăng trưởng của Việt Nam dự kiến sẽ đi theo xu hướng giảm của kinh tế toàn cầu. Cụ thể, dự báo tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 6,6% và 6,5% cho các năm 2019 và 2020. Lạm phát dự kiến vẫn được duy trì ở mức 4% do chính sách tiền tệ nhiều khả năng sẽ được thắt chặt.
Nhưng rủi ro cũng đang gia tăng
Báo cáo cũng chỉ ra, triển vọng trên vẫn tiềm ẩn những rủi ro đang tích tụ, theo hướng xấu đi. Trong bối cảnh nền kinh tế và thương mại Việt Nam có độ mở cao, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ không còn nhiều, Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động bên ngoài. “Nhìn về tương lai mà trước mắt là năm 2019, có nhiều thách thức đang nổi lên. Bên ngoài, chúng ta thấy xuất hiện và tác động của những yếu tố như căng thẳng thương mại Trung - Mỹ. Việt Nam được xem là một trong những nền kinh tế có độ mở rất lớn, có thể nói là lớn nhất trên thế giới nên đòi hỏi Việt Nam cũng sẽ phải nỗ lực để chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những cú sốc bên ngoài có thể gia tăng mà căng thẳng thương mại Trung - Mỹ chỉ là một ví dụ”, theo ông Ousmane Dione.
Trong khi đó, theo ông Sebastian Eckardt, chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam, căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang có thể dẫn đến suy giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời thanh khoản trên toàn cầu bị thắt chặt có thể làm giảm dòng vốn đầu tư cũng như đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Ở trong nước, nếu các cải cách DNNN và khu vực ngân hàng chậm lại cũng có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng và gia tăng các nghĩa vụ cho khu vực công.
“Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, căng thẳng thương mại đang diễn ra và rủi ro tài chính tăng cao đang che mờ triển vọng toàn cầu. Là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì CSTT có khả năng ứng phó, tỷ giá linh hoạt và bội chi ngân sách thấp để nâng cao khả năng chống chịu những cú sốc bên ngoài có thể diễn ra”, chuyên gia này khuyến nghị.
Câu chuyện tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách thể chế cũng là một vấn đề tiếp tục được các chuyên gia WB đề cập tới. “Các nhà hoạch định chính sách nên tận dụng lợi thế trong lúc động lực tăng trưởng còn đang thuận lợi hiện nay để đẩy mạnh cải cách thể chế và cải cách cơ cấu nhằm tăng cường đầu tư và tăng trưởng dựa trên khu vực tư nhân, song song với cải thiện hiệu suất đầu tư công”, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nói.
Ngoài ra, do Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH) nên việc làm sao tiếp tục củng cố để tăng cường khả năng chống chịu trước BĐKH cũng là một vấn đề rất quan trọng. “Vừa mới đây thôi, chúng ta thấy thành phố Đà Nẵng chỉ trong 1-2 giờ mưa lớn đã ngập sâu trong nước. Điều đó đặt ra câu hỏi khả năng về cơ sở hạ tầng (CSHT) phải đáp ứng thế nào trước những tác động về thời tiết, khí hậu như vậy”, ông Ousmane Dione nêu vấn đề.
Theo ông Ousmane Dione, bằng cách thực hiện cùng lúc những công việc như trên, Việt Nam sẽ không chỉ mở ra những cánh cửa để thu hút đầu tư nhiều hơn, tìm kiếm được những cách thức bền vững hơn cho tăng trưởng kinh tế, mà song song với đó còn giúp tăng cường khả năng cạnh tranh và tính hấp dẫn, xây dựng được những động lực cho tăng trưởng, tìm kiếm những nguồn đầu tư vào CSHT có chất lượng, và đầu tư vào trung hạn, đặc biệt là những kỹ năng cần thiết cho người lao động trong thế kỷ 21 cũng như tiếp tục xây dựng được khả năng đối phó kiên cường với BĐKH. Đây cũng là những yếu tố mà chúng tôi cho rằng rất quan trọng cần đẩy mạnh triển khai trong năm 2019.
Trong bối cảnh CPTPP và EVFTA sắp có hiệu lực, báo cáo “Điểm lại” lần này cũng dành phần chuyên đề đặc biệt để tập trung bàn về việc đơn giản hóa các biện pháp phi thuế quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.
Phần chuyên đề này nhận định rằng, mặc dù thuế quan đang giảm nhanh nhưng số lượng các biện pháp phi thuế quan lại đang tăng lên. Mức thuế ưu đãi bình quân của Việt Nam đã giảm từ 13,1% năm 2003 xuống còn 6,3% năm 2015. Ngược lại, số lượng các biện pháp phi thuế quan lại tăng đến trên 20 lần trong cùng kỳ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các biện pháp phi thuế quan - nếu được thiết kế và triển khai không tốt - có thể gây hạn chế thương mại, làm méo mó giá cả, và suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cũng theo báo cáo, hệ thống các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp, chưa rành mạch và tốn kém, dẫn đến chi phí tuân thủ cao. Đơn cử, một nghiên cứu đưa ra ước tính rằng, thuế quan trị giá tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ mà Việt Nam đang áp cho hàng nhập khẩu hiện ở mức 16,6%, so với mức bình quân là 8,3% ở các quốc gia ASEAN.