Lãi suất ngân hàng tiếp tục hạ nhiệt

Tuấn Thủy

Lãi suất huy động ở mức thấp nhất kể từ cuối cuối năm 2022, bình quân giảm 1,5% đến 2% ở mỗi kỳ hạn. Lãi suất cho vay liên ngân hàng qua đêm cũng giảm xuống còn 1,2%/năm.

Sau khi quyết định điều chỉnh giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có hiệu lực vào ngày 15/3, thanh khoản trên hệ thống ngân hàng đến nay duy trì ổn định và mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh.

Cụ thể, lãi suất cho vay liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm bằng đồng Việt Nam giảm xuống chỉ còn 1,2%/năm. Đây là mức lãi suất thấp nhất kể giữa tháng 7/2022 và giảm tới 220 điểm cơ bản so với thời điểm trung tuần tháng 3.

Chênh lệch lãi suất VND-USD kỳ hạn qua đêm duy trì ở mức âm, tuy nhiên áp lực lên tỷ giá hiện tại không có nhiều nhờ đồng USD quốc tế suy yếu và nguồn cung ngoại tệ ổn định. Khối lượng giao dịch trung bình ngày có sự cải thiện (tăng 3,6% so với tuần trước) nhưng vẫn thấp hơn 30% so với mức giao dịch cao điểm vào cuối năm 2022.

Lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng đã hạ nhiệt và ổn định. Nguồn: SSI
Lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng đã hạ nhiệt và ổn định. Nguồn: SSI

Xuyên suốt tuần qua, nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng với khối lượng khá hạn chế và NHNN tiếp tục không phát hành tín phiếu mới. Hoạt động trên kênh mua kỳ hạn cũng khá trầm lắng, trong đó NHNN chào thầu 25.000 tỷ đồng, kỳ hạn 28 ngày với lãi suất 5,5% và chỉ có 215,5 tỷ đồng trúng thầu. Tổng cộng, NHNN đã hút ròng 1.900 tỷ đồng. Khối lượng lưu hành trên kênh tín phiếu duy trì ở mức 110.700 tỷ đồng và trên kênh cầm cố chỉ còn 1.200 tỷ đồng.

Lãi suất trên thị trường 1 tiếp tục hạ nhiệt trong bối cảnh thanh khoản dồi dào cũng như phản ứng trước động thái hạ một số lãi suất điều hành từ NHNN. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn trên 6 tháng có sự phân hóa giữa nhóm NHTM cổ phần có vốn Nhà nước và NHTM cổ phần. Lãi suất kỳ hạn 12 tháng ở dao động 7,2% - 8,2% một năm, giảm khoảng 150-200 điểm cơ bản so với cuối năm 2022 cho nhóm Nhà nước và dao động trong khoảng 8,0% – 8,9% một năm cho nhóm ngân hàng còn lại.

Tăng trưởng tín dụng theo tháng (% so với cùng kỳ). Nguồn: SSI
Tăng trưởng tín dụng theo tháng (% so với cùng kỳ). Nguồn: SSI

Mặc dù lãi suất giảm, nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức chậm so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến cuối tháng 2, tín dụng toàn nền kinh tế chỉ tăng nhẹ 0,77%, huy động vốn tăng 0,05% so với cuối năm 2022.

Theo báo cáo của SSI, trong ngắn hạn, xu hướng lãi suất huy động sẽ tiếp tục giảm. Tuy nhiên, nếu tín dụng hồi phục, cũng như tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn được điều chỉnh vào tháng 10 tới đây, áp lực tăng lãi suất sẽ quay trở lại.

Thị trường tiền tệ trầm lắng, tỷ giá USD/VND cũng không có nhiều biến động. Thông thường, 3 tháng đầu năm là giai đoạn nguồn cung ngoại tệ tương đối tích cực giúp môi trường tỷ giá ổn định. Do đó, tỷ giá niêm yết tại các NHTM và tỷ giá liên ngân hàng đã hạ nhiệt mặc dù có áp lực đối với tiền đồng, do chênh lêch lãi suất VND-USD liên ngân hàng ở mức âm. 

Ngày 27/3, tỷ giá niêm yết từ Vietcombank giảm 70 đồng/USD, tỷ giá chợ đen cũng giảm 70 đồng/USD, giao dịch ở thị trường tự do quanh mức 23.480 đồng – 23.530 đồng (mua vào – bán ra). Tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng giảm 0,2%, xuống 23.530 đồng/USD và tiệm cận vùng giá mua của NHNN.

Về thị trường trái phiếu Chính phủ, lợi suất đều giảm mạnh trên cả 2 thị trường sơ cấp và thứ cấp. Tỷ lệ trúng thầu trái phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp trong đó kỳ hạn 5 năm huy động được 700 tỷ đồng và kỳ hạn 30 năm huy động được 2.100 tỷ đồng.

Lợi suất trúng thầu giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn, ở mức 3,3% (giảm 40 điểm cơ bản) cho kỳ hạn 5 năm và 3,6% (giảm 42 điểm cơ bản) cho kỳ hạn 10 năm và 3,8% (giảm 36 điểm cơ bản). Như vậy, tính từ đầu năm đến nay, Kho bạc Nhà nước đã huy động thành công 94.000 tỷ đồng, hoàn thành 81% kế hoạch phát hành Quý I và 23,5% kế hoạch năm. 

Lợi suất trái phiếu trên thị trường thứ cấp giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn sau động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN cũng như tương đồng với lợi suất trái phiếu Chính phủ trong khu vực.

Cụ thể, lãi suất kỳ hạn một năm là 3,38%, giảm 22 điểm cơ bản;  kỳ hạn 3 năm là 3,4%, giảm 24 điểm cơ bản; kỳ hạn 5 năm là 3,40%, giảm 26 điểm cơ bản; kỳ hạn 10 năm là 3,48%, giảm 43 điểm cơ bản; kỳ hạn 15 năm: 3,67%, giảm 37 điểm cơ bản; kỳ hạn 20 năm giảm 39 điểm cơ bản còn 4,28% và kỳ hạn 30 năm giảm 42 điểm cơ bản còn 4,36%.