Luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 để củng cố tăng trưởng lợi nhuận ngành Ngân hàng
Việc luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 sẽ giúp xóa bỏ khoảng trống pháp lý, hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thông qua xử lý tài sản bảo đảm, giảm chi phí xử lý nợ xấu, giúp ngân hàng cải thiện chất lượng kinh doanh.

Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Trước năm 2017, “xử lý nợ xấu” vẫn là vấn đề nhức nhối của ngành Ngân hàng mà còn của cả nền kinh tế. Tiến độ thu hồi nợ chậm là một nhân tố kìm hãm lên thanh khoản thị trường và gián tiếp ảnh hướng đến tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Trước đây, khi chưa có Nghị quyết số 42/2017/QH14, các tổ chức tín dụng gặp nhiều vướng mắc liên quan đến việc xử lý nợ xấu dó thiếu quy định trực tiếp về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm; thời gian xử lý tài sản bảo đảm kéo dài; chi phí xử lý nợ xấu cao…
Kể từ khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực, xử lý nợ xấu thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ; xử lý, bán, phát mại tài sản bảo đảm...tăng cao. Theo đó, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, trong tổng số 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã được xử lý có 148 nghìn tỷ đồng là do khách hàng tự trả nợ (chiếm 38,93%), cao hơn so với mức 22,8% trung bình năm từ 2012-2017 do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu nội bảng đã xử lý. Đồng thời, kết quả xử lý, bán, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của tổ chức tín dụng và VAMC đạt 77,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,3%. Mặc dù đem lại kết quả tích cực, thực tế vẫn tạo ra một số vướng mắc bất cập trong khi triển khai.
Cụ thể, cơ chế tiếp cận thông tin về tài sản bảo đảm chưa đầy đủ. Hiện nay, các cơ quan Tòa án và Thi hành án dân sự chưa có hệ thống dữ liệu để các tổ chức tín dụng tra cứu thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, gây khó khăn trong việc xác định tài sản có đang tranh chấp hay không. Việc thiếu hướng dẫn cụ thể dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan tố tụng, làm cản trở quá trình thu giữ tài sản.
Các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc áp dụng thủ tục rút gọn. Mặc dù Nghị quyết số 42/2017/QH14 cho phép sử dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, nhưng thực tế rất khó thực hiện do nhiều khách hàng cố tình trốn tránh, không hợp tác. Phần lớn các vụ án vẫn phải chuyển sang thủ tục thông thường, kéo dài thời gian giải quyết.
Bên cạnh đó, giữa Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Luật Đất đai không có sự thống nhất. Nghị quyết số 42/2017/QH14 cho phép chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản mà không cần giấy chứng nhận, trong khi Luật Đất đai 2013 yêu cầu phải có giấy chứng nhận trước khi thực hiện chuyển nhượng. Sự mâu thuẫn này gây khó khăn trong thực tế triển khai.
Việc hoàn trả tài sản bảo đảm trong các vụ án hình sự còn thiếu hướng dẫn. Nghị quyết số 42/2017/QH14 yêu cầu cơ quan tố tụng hoàn trả tài sản bảo đảm sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ, nhưng chưa có quy định rõ ràng về việc thế nào là “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”, khiến quá trình hoàn trả gặp khó khăn….
Hơn nữa, Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ có hiệu lực thí điểm trong 5 năm và đã được gia hạn đến cuối năm 2023. Sau khi hết hiệu lực, các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các quy định chung của pháp luật, không được hưởng các cơ chế ưu tiên của Nghị quyết, gây ra nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ xấu.
Nhằm tạo lập một khuôn khổ pháp lý đồng bộ và ổn định về xử lý nợ xấu, Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ mang tính thí điểm và đã hết hiệu lực vào ngày 31/12/2024. Do đó, việc luật hóa các quy định đã chứng minh được hiệu quả của Nghị quyết sẽ giúp giải quyết dứt điểm những vướng mắc, khó khăn pháp lý mà các tổ chức tín dụng và tổ chức mua bán, xử lý nợ đang gặp phải trong quá trình xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm.
Trong bối cảnh nợ xấu nội bảng của toàn ngành Ngân hàng đạt gần 5%, việc thông qua Luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 (hiện tại thiếu khung pháp lý để các ngân hàng xử lý) sẽ tác động tích cực vào việc giảm chi phí trong quá trình xử lý nợ xấu, đồng thời hỗ trợ thanh khoản thị trường nhờ việc xử lý thành công các khoản nợ xấu tồn đọng.
Các ngân hàng có tỷ lệ bán lẻ cao, một mặt, sẽ tiết kiệm được một phần chi phí xử lý tài sản bảo đảm và mặt khác, tăng thu nhập từ thu hồi nợ xấu. Ngoài ra, các ngân hàng có tài sản đảm bảo liên quan đến các vụ án hình sự (như SCB) nhưng không thuộc trách nhiệm của mình sẽ đẩy nhanh tiến độ thu hồi. Các ngân hàng trong diện tái cơ cấu sẽ có một giai đoạn pháp lý hoàn thiện hơn để xử lý nợ, mang lại hiệu quả tốt hơn so với giai đoạn thử nghiệm theo Nghị quyết số 42/2017/QH14.