Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam thời kỳ hội nhập
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập.
Khảo sát về chất lượng nguồn nhân lực và thị trường lao động nước ta hiện nay, bài viết phân tích những cơ hội và thách thức, qua đó đề xuất các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam
Chất lượng nguồn nhân lực (NNL) được hiểu là khả năng con người thực hiện, hoàn thành công việc đạt được mục đích lao động. Khả năng lao động còn được gọi là năng lực. Năng lực = sức lực + trí lực + tâm lực. Công tác quản lý nhân lực là hoạt động tổ chức, điều hành, sắp xếp nhân lực làm sao để phát huy tối đa khả năng lao động của con người.
Trong điền kiện kinh tế thị trường cạnh tranh cao và hội nhập sâu rộng thì chất lượng NNL được coi là yếu tố quan trọng phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống của con người trong một xã hội nhất định.
Các lý thuyết kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng, nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của một quốc gia, đặc biệt là trong một tổ chức. Nhân lực là tài sản quan trọng nhất của một tổ chức, điều này được thể hiện trên một số khía cạnh như: Chi phí cho NNL trong một tổ chức là chi phí khó có thể dự toán được, lợi ích do NNL tạo ra không thể xác định được một cách cụ thể mà nó có thể đạt tới một giá trị vô cùng to lớn. Nhân lực trong một tổ chức vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho hoạt động của tổ chức. Nhân lực là yếu tố cơ bản cấu thành nên tổ chức, là điều kiện cho tổ chức tồn tại và phát triển. Vì vậy, một tổ chức được đánh giá mạnh hay yếu, phát triển hay tụt hậu phụ thuộc phần lớn vào chất lượng NNL của tổ chức đó…
Sự hình thành Cộng đồng ASEAN và việc triển khai các cam kết thương mại mới như Hiệp định thương mại với Liên minh châu Âu, Hiệp định toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang đặt ra những thách thức đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị lực lượng lao động để có thể đáp ứng và hưởng lợi từ các cam kết này. Mặc dù, đang trong thời kỳ dân số vàng, nguồn cung lao động dồi dào và ổn định nhưng với diễn biến nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cùng bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã đặt Việt Nam trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Cụ thể:
5 cơ hội
Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94 triệu lao động, trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16 triệu người. Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2018 là 54 triệu người, bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản (chiếm 38,6%); khu vực công nghiệp, xây dựng 14,4 triệu người (chiếm 26,7%); khu vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%).
Lợi thế thứ hai, thời gian qua năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Theo Tổng cục Thống kê, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 đạt khoảng 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Tính theo giá so sánh, NSLĐ năm 2018 tăng 5,93% so với năm 2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao hơn mức tăng 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
Lợi thế thứ ba, chất lượng lao động từng bước được nâng lên; Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp (DN) và thị trường. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam cơ bản đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài…
Thách thức đặt ra
Bên cạnh những lợi thế trên, nguồn nhân lực ở Việt Nam đang phải đối diện với những thách thức sau:
Thách thức lớn nhất là tính cạnh tranh trong thị trường nhân lực ngày càng rất cao, trong khi mức độ sẵn sàng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) Việt Nam còn chậm. Cạnh tranh giữa nước ta với các nước trên thế giới trong việc cung cấp nguồn lao động chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng GDNN phải được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế giới, tăng cường khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa Việt Nam và các nước khác.
Thách thức thứ hai là Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số; cùng với đó là nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ hiện tượng biến đổi khí hậu khiến một số ngành suy giảm lợi thế cạnh tranh.
Thách thức thứ ba, chất lượng NNL ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chất lượng lao động vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và hội nhập; Khoảng cách giữa GDNN và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn. Hơn nữa, sự chuyển dịch mô hình, cơ cấu kinh tế khiến cho cung và cầu trong lao động thay đổi, trong khi các ngành nghề đào tạo trong nhà trường chưa bắt kịp được xu thế sử dụng lao động của DN. Khảo sát cho thấy, khả năng hòa nhập của học sinh, sinh viên Việt Nam sau tốt nghiệp trong môi trường lao động mới còn yếu; Khả năng thích ứng với thay đổi, kỹ năng thực hành và ý thức, tác phong làm việc cũng là những thách thức không nhỏ đối với lao động Việt Nam.
Thách thức thứ tư, cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao sẽ diễn ra mạnh mẽ trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia. Việc mở ra khả năng di chuyển lao động giữa các nước đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề cao, có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những tiêu chuẩn, tiêu chí do thị trường lao động xác định. Theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, sự chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, thái độ và tâm lý để sẵn sàng di chuyển của lao động Việt Nam hiện nay chưa cao.
Thách thức thứ năm, NSLĐ của Việt Nam còn thấp. Chất lượng nhân lực trong nước so với các nước trong khu vực còn chưa đồng đều, nhất là về kỹ năng nghề. Khoa học, công nghệ nước ta chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao NSLĐ, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng chưa có giải pháp đủ mạnh để khuyến khích DN và thu hút đầu tư tư nhân cho nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ.
Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Khoa học Lao động xã hội, NSLĐ ở Việt Nam và trình độ quản trị DN hiện nay rất thấp, 2/3 người lao động đang thiếu kỹ năng về lao động và kỹ thuật; 55% số DN cho rằng rất khó tìm kiếm nguồn lao động có chất lượng cao. Trong khi trên 60% số DN FDI đang có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam nhưng nếu nước ta không nâng cao chất lượng nguồn lao động thì rất khó có thể thu hút nguồn vốn đầu tư.
Thách thức thứ sáu, chất lượng việc làm còn thấp, trong khi khả năng tạo việc làm của nền kinh tế trong giai đoạn suy giảm, tăng trưởng kinh tế không cao đã ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm cho người lao động. Nguồn lực hỗ trợ tạo việc làm thấp, chưa đảm bảo để thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ giải quyết việc làm. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao; chất lượng lao động thấp.
Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2017 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố cho thấy, 69% số DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đang vấp phải khó khăn trong tuyển dụng cán bộ kỹ thuật có tay nghề để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Báo cáo cũng nhận định, chất lượng NNL Việt Nam chưa có nhiều đột phá. DN FDI đánh giá chất lượng đào tạo và hiệu quả của lao động Việt Nam năm 2017 chỉ đạt 3,8 điểm. Vì vậy, DN phải chi nhiều tiền hơn cho hoạt động đào tạo khi tuyển dụng nhân sự mới, mức độ chi tăng qua các năm.
Thách thức thứ bảy, xem xét vấn đề thất nghiệp trong lợi thế so sánh với các nước tương quan, gần đây, lao động giá rẻ không còn là điểm mạnh của Việt Nam. Đặc biệt, khi Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), thì lao động trình độ cao mới có cơ hội, có việc làm và số còn lại đứng trước nguy cơ thất nghiệp.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước năm 2018 là 2%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,55%. Xu hướng thất nghiệp gia tăng có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là chất lượng đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng chưa cao, lao động mới tốt nghiệp đa số không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của cơ quan, DN.
Hệ thống thông tin thị trường lao động cũng chưa phản ánh khách quan, kịp thời sự biến động của thị trường lao động; chưa đưa ra được các dự báo trung và ngắn hạn về thị trường lao động, tính hiệu quả chưa cao của hoạt động dịch vụ việc làm đã góp phần làm gia tăng xu hướng này…
Một số giải pháp trọng tâm
Hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao động Việt Nam. Với tiêu chí tuyển dụng cao hơn đòi hỏi NNL phải có nhiều kỹ năng ngoài kiến thức chuyên môn như: Khả năng giao tiếp, làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo hay trình độ tin học... Như vậy, muốn thành công trong môi trường cạnh tranh, người lao động Việt Nam phải có ý thức mở rộng kiến thức nghề nghiệp, áp dụng công nghệ mới không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp… Nếu không ý thức được điều này, người lao động Viêt Nam sẽ thua ngay trên “sân nhà”.
Nhằm nâng cao chất lượng NNL, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, đổi mới yêu cầu về giáo dục, nâng cao chất lượng NNL thông qua đẩy mạnh đào tạo kỹ năng, năng lực thực hành; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng nguồn lực cho phát triển GDNN. Rà soát tổng thể đội ngũ nhà giáo GDNN (cả giáo viên trong các trường trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng), để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa, đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề đến năm 2020.
Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề phù hợp với Khung trình độ quốc gia, trước mắt tập trung vào các nghề trọng điểm, các nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN; Rà soát và điều chỉnh việc xây dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo hướng linh hoạt, tăng tính thực hành.
Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập trung các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục thiết bị đã ban hành theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Đồng thời, rà soát, thống nhất các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN; xây dựng các cơ chế, quy định về đảm bảo chất lượng; các cơ chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng trong các cơ sở GDNN.
Thứ ba, tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở GDNN; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động của DN; Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của DN được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo, sử dụng lao động của DN theo ngành, nghề và nhu cầu tuyển dụng lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về GDNN.
Thứ tư, tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn để tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức về tầm quan trọng của GDNN đối với toàn xã hội; Xây dựng các sản phẩm tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp, phân luồng học sinh trong nhà trường phổ thông; giới thiệu việc làm trong trường nghề. Tiếp tục hợp tác với các Chính phủ: Hàn Quốc, Đức, Italia và Nhật Bản trong triển khai các dự án ODA dạy nghề đã ký kết; Thực hiện đám phán với các nhóm nước trong ASEAN để tiến tới công nhận văn bằng, chứng chỉ và kỹ năng nghề giữa các nước; Hoàn thiện các chính sách, khuyến khích các cơ sở GDNN trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hợp tác nghiên cứu khoa học; Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển cơ sở GDNN, hợp tác đào tạo, mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Thứ năm, phát triển thị trường lao động trong giai đoạn đến năm 2020 trong điều kiện kết hợp giữa chiến lược phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, hướng về xuất khẩu, phát huy được các lợi thế so sánh và tiềm năng của lực lượng lao động với chiến lược tập trung vào nhu cầu NNL cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập. Thúc đẩy thực hiện cơ chế thương lượng, thỏa thuận về tiền lương nhằm đảm bảo tiền lương thực tế được trả đúng theo cơ chế thị trường, đồng thời phù hợp với sự đóng góp của người lao động vào quá trình tăng trưởng.
Thứ sáu, thúc đẩy quá trình tự do lựa chọn việc làm và dịch chuyển lao động (dịch chuyển dọc theo các cấp trình độ, dịch chuyển ngang giữa các thành phần sở hữu, khu vực, vùng và quốc tế) đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trường lao động (hướng nghiệp, dịch vụ việc làm, thông tin và dự báo thị trường lao động) và tổ chức cung cấp các dịch vụ công về việc làm có hiệu quả.
Thứ bảy, hỗ trợ các nhóm yếu thế trong thị trường lao động, tăng cường an sinh xã hội và sự tham gia của người lao động vào chế độ bảo hiểm xã hội; tăng cường khả năng phòng ngừa và khắc phục rủi ro về việc làm và thu nhập của người lao động. Đồng thời, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh và nâng cao năng lực của các chủ thể trên thị trường lao động, đặc biệt là năng lực quản lý, tổ chức, điều tiết và hỗ trợ thị trường lao động phát triển của Nhà nước.
Tài liệu tham khảo:
- “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020”, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI;
- “Chiến lược phát triển Giáo dục 2011- 2020”, ban hành theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ;
- Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo Điều tra Lao động việc làm năm 2018;
- Các website: gso.gov.vn, molisa.gov.vn, chinhphu.vn, laodongxahoi.net…