Nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Phan Thị Ngọc Hoa - Trường Đại học Quốc tế

Thời gian qua, việc chuyển giao công nghệ qua các dự án của các doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực như: Dầu khí, điện tử, viễn thông...; qua đó tạo ra nhiều sản phẩm mới với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Bên cạnh kết quả đạt được, việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng gặp một số khó khăn, hạn chế cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet
Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet

Khái quát chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam

Chuyển giao công nghệ được nhiều tổ chức quốc tế định nghĩa: Chuyển giao và tiếp nhận công nghệ qua biên giới thông qua thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài hoặc chuyển giao và tiếp nhận tự giác hay không tự giác (học tập, hội thảo khoa học, tình báo kinh tế...). Đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển, con đường nhanh nhất và ngắn nhất để thu hẹp khoảng cách đối với các nước phát triển là thu hút công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, trong đó kênh quan trọng nhất là qua các dự án FDI.

Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Chẳng hạn như: Năm 1995, vấn đề chuyển giao công nghệ được quy định rõ tại phần VI Chương III trong Bộ luật Dân sự. Đến năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ. Hai năm sau, năm 2008, Quốc hội thông qua Luật Công nghệ cao. Tiếp đó, đến năm 2017, Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ 2017 (thay thế cho Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006).

Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 (Khoản 5 Điều 3) quy định về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó quy định: Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước; chú trọng lan tỏa công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài sang DN trong nước.

Luật Đầu tư quy định: DN công nghệ cao là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư; hoạt động công nghệ cao là ngành, nghề ưu đãi đầu tư và khu công nghệ cao là địa bàn ưu đãi đầu tư. Điều này thể hiện sự nhất quán trong hoạch định chính sách về đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ cao, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam. FDI đóng vai trò quan trọng đối với chuyển giao công nghệ, được thực hiện bằng chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và nghiên cứu ứng dụng, cải tiến và phát triển công nghệ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.

Các DN FDI tạo ra mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước; từ đó, các DN trong nước có cơ hội tiến hành nghiên cứu và phát triển (R&D) qua việc thiết kế, chế tạo, tiếp thu công nghệ nguồn, sau đó cải tiến cho phù hợp với điều kiện thực tế và biến chúng thành công nghệ của mình. Chuyển giao công nghệ được thực hiện chủ yếu từ các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Đây là nguồn lực được các nước đang phát triển quan tâm với nhiều ưu đãi khi thu hút FDI. Đồng thời, TNCs đầu tư thành lập các trung tâm R&D tại nước tiếp nhận FDI, mà phần lớn hoạt động R&D nhằm cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện thực tiễn sử dụng của địa phương.

Tuy nhiên, việc chuyển giao công nghệ qua FDI cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư; nếu không biết lựa chọn, giám định công nghệ này thì có thể tiếp nhận công nghệ lạc hậu, công nghệ không phù hợp với nhu cầu đổi mới công nghệ của đất nước, tiêu hao nhiều năng lượng, phát thải nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính, gây ô nhiễm môi trường. Hiện tượng phổ biến trong các hợp đồng chuyển giao công nghệ của các DN FDI là giá cả cao hơn nhiều so với mua công nghệ của các nước phát triển. Do vậy, khi thương thảo hợp đồng chuyển giao công nghệ, cần có chuyên gia tư vấn am hiểu thị trường công nghệ quốc tế để bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của bên tiếp nhận công nghệ.

Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Trong những năm qua, Việt Nam đã chú trọng thu hút chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để tận dụng ưu thế của nước đi sau, sớm tiếp cận những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Đối với tất cả các nước đang phát triển, FDI là nguồn lực quan trọng để thu hút vốn, công nghệ nhằm tăng cường năng lực công nghệ của các DN trong nước. Vai trò này được thể hiện ở hai khía cạnh là tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào và nghiên cứu, cải tiến phát triển công nghệ, phù hợp với điều kiện thực tế, nâng cao năng lực công nghệ trong nước. Đây là mục tiêu quan trọng mà nước tiếp nhận FDI luôn hướng đến.

Qua các hoạt động cải tiến công nghệ của các DN FDI tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Với cách thức gián tiếp này, nước tiếp nhận đầu tư sẽ tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ (R&D) của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Trong lĩnh vực công nghệ cao, Việt Nam đã có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các khu công nghệ cao, trong đó Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh đã đạt được kết quả khả quan.

Sau 20 năm thành lập, đến nay, Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh đã có khoảng 130 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt gần 7 tỷ USD với sự hiện diện của các tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như: Intel, Microsoft, Nidec, Sanofi, Nipro, Samsung... Điển hình như: Samsung đã vận hành và hoạt động một trung tâm R&D với số vốn đầu tư hàng trăm triệu USD tại TP. Hồ Chí Minh. Điều này là minh chứng khẳng định hướng đi đúng đắn của Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, hiện đang có hàng trăm DN thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin (1 trong 4 lĩnh vực ưu tiên theo Luật Công nghệ cao) hoạt động trong các khu công nghệ thông tin tập trung.

Việc chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực như: Dầu khí, điện tử, viễn thông... Cùng với đó, nhiều sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Cách mạng công nghiệp 4.0.

Đi liền với chuyển giao công nghệ là quá trình tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới và đào tạo được đội ngũ lao động có trình độ cao, có khả năng sử dụng được các công nghệ hiện đại. Nhiều kỹ sư sau một thời gian làm việc tại các DN FDI đã học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, trưởng thành, từ đó hình thành nên một thế hệ chủ DN có năng lực cạnh tranh và trình độ công nghệ tương đương với các đối tác nước ngoài.

Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã đặt ra mục tiêu tiếp thu công nghệ nguồn từ các tập đoàn đa quốc gia, các nước công nghiệp phát triển hàng đầu. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này là rất khó khăn và gần như không đạt được kết quả như kỳ vọng. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tỷ lệ DN FDI sử dụng công nghệ của châu Âu và Mỹ chỉ chiếm khoảng 6%; trong khi tỷ lệ DN sử dụng công nghệ Trung Quốc chiếm tới 30 - 45%.

Về tổng thể, tỷ lệ DN FDI sử dụng công nghệ có tuổi đời trên 20 năm, chiếm hơn 65% và chủ yếu là công nghệ trung bình, hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; DN sử dụng công nghệ sản xuất trong những năm gần đây chỉ chiếm 15%. Các DN FDI cũng phát triển công nghệ chủ yếu thông qua việc mua công nghệ hơn là phát triển nâng cao và đổi mới công nghệ, tỷ lệ DN FDI đầu tư cho các hoạt động R&D ở Việt Nam rất thấp. Thực trạng này đã hạn chế khả năng chuyển giao và lan tỏa công nghệ của khu vực FDI.

Bên cạnh đó, những công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là công nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư. Trong khi đó, công tác đánh giá, lựa chọn công nghệ của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, những công nghệ được chuyển giao phần lớn là do phía nước ngoài giới thiệu, không phải tự các DN trong nước tìm kiếm hoặc nghiên cứu, tìm hiểu.

Do vậy, các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam trong thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới. Nếu chúng ta không chủ động lựa chọn công nghệ thì không thể có được những công nghệ đem lại lợi ích cao và đáp ứng yêu cầu của tiến trình phát triển kinh tế đất nước. Ngoài ra, hoạt động R&D của các doanh nghiệp FDI mới chỉ dừng ở những công nghệ nhỏ, đơn giản hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhìn chung, việc khai thác, học hỏi công nghệ thông qua FDI chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Một số khó khăn, thách thức trong hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

Bên cạnh những đóng góp tích cực từ hoạt động chuyển giao công nghệ tại các dự án FDI mang lại cho Việt Nam, thì công tác này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ của DN trong nền kinh tế khi vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế sau:

Một là, việc tiếp thu học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý của nhân sự Việt Nam trong quá trình hợp tác với nước ngoài chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Đặc biệt là việc tiếp thu, khai thác ứng dụng công nghệ hầu như chỉ diễn ra trong phạm vi của các dự án FDI, mức độ lan tỏa đến các DN trong nước còn rất hạn chế.

Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chuyển giao công nghệ là có nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu kỹ năng, chưa đáp ứng được với yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là trong một số ngành đòi hỏi kỹ năng, tay nghề cao. Chính vì vậy, cần có giải pháp chủ động hơn trong việc tiếp nhận kiến thức, kỹ năng qua chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, tại một số địa phương, năng lực thẩm định các dự án FDI còn hạn chế nên chưa thu hút được các công nghệ cao, hiện đại kèm theo việc chuyển giao công nghệ.

Hai là, mặc dù công nghệ chuyển giao vào Việt Nam hầu hết là công nghệ có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở Việt Nam, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực. Những công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là công nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư, mà thường không phải theo nhu cầu đổi mới công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra. Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp vẫn còn nặng về thành tích lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chưa chú trọng vào việc thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ mới.

Ba là, công tác thẩm định công nghệ chưa được quan tâm đúng mức. Nhà đầu tư thường chú trọng, quan tâm đến lợi ích, đầu tư để sinh lợi, nhưng quy định pháp luật lại cho phép nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về nội dung công nghệ. Qua thẩm định các dự án FDI cho thấy, nội dung giải trình công nghệ thường rất sơ sài, trong khi đó, công nghệ lại có đặc điểm quan trọng là hàng hóa vô hình.

Để lựa chọn công nghệ phù hợp với mục tiêu của dự án, thường phải đưa ra các phương án công nghệ để so sánh, lựa chọn phương án tối ưu, xem xét quy trình công nghệ, trình độ công nghệ, nguồn gốc xuất xứ máy móc, thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất…

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, với xu thế đơn giản hóa thủ tục hành chính, hồ sơ dự án đầu tư ngày càng đơn giản, nên cơ quan thẩm định công nghệ không có đủ cơ sở để xem xét, đánh giá. Mặt khác, khi phân cấp đầu tư, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lại không gửi hồ sơ dự án hỏi ý kiến các Sở Khoa học và Công nghệ theo quy định. Do đó, trường hợp nhà đầu tư đưa vào máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu, gây ô nhiễm môi trường…, thì không có cơ chế để ngăn chặn ngay từ đầu, mà phải đợi đến khi hậu kiểm thì không có cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả.

Bốn là, năng lực thẩm định của các Sở Khoa học và Công nghệ còn hạn chế. Việc tiếp nhận, học hỏi công nghệ thông qua FDI còn một số tồn tại, hạn chế. Đối với các dự án FDI, việc nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ cho người lao động là rất quan trọng để từng bước tiếp nhận, vận hành và làm chủ công nghệ. Tuy nhiên, với các liên doanh, Việt Nam lại chưa chú trọng việc tuyển chọn, đãi ngộ cán bộ, công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực để bố trí vào các công đoạn sản xuất quan trọng. Việc đào tạo kỹ thuật vẫn còn nặng về lý thuyết, ít thực hành nên khi được tuyển dụng vào làm việc thường phải đào tạo bổ sung. Với các DN đòi hỏi lao động kỹ thuật với số lượng lớn thì lại không tuyển dụng được lao động đáp ứng đủ số lượng và chất lượng.

Năm là, số lượng dự án FDI đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ còn rất ít. Hoạt động R&D tại các DN FDI mới chỉ dừng ở những công nghệ nhỏ, đơn giản hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Sáu là, phần lớn các hợp đồng chuyển giao công nghệ đăng ký tại cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ tập trung vào chuyển giao quy trình công nghệ, bí quyết công nghệ (73%), trợ giúp kỹ thuật (77%), đào tạo (71%). Trong khi đó, chuyển giao công nghệ bao gồm đối tượng sở hữu công nghiệp chiếm (13%).

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tỷ lệ DN FDI sử dụng công nghệ của châu Âu và Mỹ chỉ chiếm khoảng 6%; trong khi tỷ lệ DN sử dụng công nghệ Trung Quốc chiếm tới 30 - 45%. Về tổng thể, tỷ lệ DN FDI sử dụng công nghệ có tuổi đời trên 20 năm, chiếm hơn 65% và chủ yếu là công nghệ trung bình, hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; DN sử dụng công nghệ sản xuất trong những năm gần đây chỉ chiếm 15%.

Bên cạnh đó, các DN nắm giữ công nghệ nguồn, công nghệ cao đầu tư tại Việt Nam chưa nhiều. Một số dự án FDI còn tập trung vào lắp ráp, gia công với tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị tạo ra tại Việt Nam không cao, điều này dẫn đến sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước chưa được như mong muốn...

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, cũng như nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi để khuyến khích các DN FDI công nghệ cao vào Việt Nam; từ đó, nâng cao chất lượng các dự án FDI, tăng cường liên kết với DN trong nước và đầu tư vào khoa học - công nghệ.

Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực công nghiệp nhằm tăng cường đầu tư, tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững.

Ba là, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phát triển, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sử dụng công nghệ và đẩy mạnh hoạt động R&D tại các DN công nghiệp thông qua các trung tâm kỹ thuật công nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương có tiềm năng phát triển công nghiệp, có đội ngũ chuyên gia có nghiệp vụ công nghệ, đặc biệt là hệ thống máy móc sử dụng chung.

Bốn là, các trường đại học, viện nghiên cứu và đội ngũ các nhà khoa học phối hợp với các DN FDI tổ chức khảo sát thực tế, học hỏi kinh nghiệm ứng dụng công nghệ cao của loại hình DN này để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời, xây dựng năng lực cho DN trong nước và tăng cường liên kết giữa DN và nhà trường bảo đảm đủ năng lực tiếp nhận và hấp thụ hiệu quả công nghệ chuyển giao từ các đối tác nước ngoài.

Năm là, xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ DN trong nước trong việc mua lại và sáp nhập các đối tác nước ngoài để nhanh chóng tiếp cận công nghệ và mạng lưới sản xuất tiên tiến toàn cầu.

Tài liệu tham khảo:

  1. Trần Văn Hải (2012), Xây dựng Luật Khoa học và Công nghệ - từ tiếp cận so sánh. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21 (229), tr.29-35;
  2. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012), Bàn về thuật ngữ “Thị trường khoa học”, “thị trường công nghệ” và “thị trường khoa học và công nghệ”. Tạp chí Hoạt động Khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, ISSN 1859 – 4794, số 641, tr. 50 – 54;
  3. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang, Hoàng Thanh Hạnh (2013), Một số ý kiến trao đổi liên quan đến thuật ngữ “thẩm định/thẩm tra công nghệ. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, ISSN 1859 – 4794, số 11, tr. 33- 36;
  4. Nguyễn Thị Vân Anh, “Bàn về sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ tiếp cận từ so sánh với Luật Khoa học và công nghệ”
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2023