Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa qua công cụ kế toán quản trị
Hiện nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn tồn tại nhiều hạn chế, một trong số đó là thiếu kỹ năng kế toán quản trị để đưa ra quyết định. Đây là trở ngại lớn cho việc phát triển của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp khó có khả năng tiếp cận tín dụng. Bài viết này phân tích vai trò kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ đó, đề xuất một số giải pháp vận dụng kế toán quản trị hiệu quả nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là các DN có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, có số lượng lao động ít và số vốn nhỏ, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiên các hoạt động kinh doanh.
DNNVV đã được công nhận trên thế giới vì vai trò của nó trong việc tạo ra cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Đối với các nước đang phát triển, DNNVV là một phần cơ bản của nền kinh tế, đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới và thịnh vượng. Nhiều nghiên cứu đã xác định hiệu quả hoạt động của các DNNVV của một quốc gia là một tín hiệu tốt về triển vọng trong tương lai.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2022, Việt Nam có khoảng trên 870.000 doanh nghiệp (DN) đang hoạt động, trong đó DNNVV chiếm khoảng 98%, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao động. Tuy nhiên, khu vực DNNVV có quy mô vốn nhỏ, thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn chính thức. Các số liệu nghiên cứu cũng cho thấy, hiện chỉ có khoảng 1/3 DNNVV (chưa đến 36%) trong số các DN đang hoạt động tiếp cận được vốn vay ngân hàng.
Tình trạng thiếu tín dụng là một trở ngại lớn đối với các DNNVV. Những DN này chủ yếu dựa vào tiết kiệm cá nhân hoặc các khoản vay từ người thân và bạn bè, làm nguồn vốn khởi nghiệp của họ. Mặt khác, khả năng tiếp cận tín dụng đối với DNNVV chưa cao là do trình độ quản lý và áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất kinh doanh còn hạn chế; hoạt động sản xuất kinh doanh thường mang tính tự phát, thiếu chiến lược cụ thể, sức chịu đựng rủi ro thấp trước biến động của kinh tế vĩ mô. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ ngân hàng của DN, đặc biệt là thiếu kỹ năng kế toán quản trị (KTQT) để đưa ra quyết định là trở ngại lớn cho việc phát triển một DN cũng như khó có khả năng tiếp cận tín dụng.
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hiện nay hầu hết các tổ chức tín dụng đều tham gia cho vay đối với DNNVV. Bình quân giai đoạn 2018-2022, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng 14,17%, cao hơn bình quân chung toàn nền kinh tế. Đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng 8,28% so với cuối năm 2021, chiếm khoảng gần 19% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.
Theo đó, dư nợ tín dụng DNNVV phần lớn tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ chiếm 56,29%, công nghiệp và xây dựng chiếm 40,85%. Các ngân hàng thương mại nhà nước đang cho vay DNNVV chiếm 48,05%, khối ngân hàng thương mại cổ phần cho vay chiếm 47,43%, khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính và ngân hàng hợp tác xã tham gia cho vay 4,52%.
Vai trò của kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của kế toán quản trị (KTQT) ngày càng được khẳng định, đặc biệt là trong các DNNVV. KTQT giúp các DNNVV giám sát và kiểm soát hoạt động tại đơn vị để quản lý tốt hơn các nguồn lực khan hiếm và nâng cao chất lượng của các quyết định đưa ra. KTQT tham gia vào quá trình lập kế hoạch, hoạch định các chiến lược phát triển DN bao gồm cả dự toán nguồn kinh phí để thực hiện kế họach; giúp cho DN chủ động hơn trong tìm kiếm nguồn lực, huy động tối đa năng lực hiện có của DN cũng như cung cấp thông tin cho quá trình kiểm soát chi phí trong đơn vị. Thông qua các báo cáo KTQT về chi phí ở từng bộ phận, từng khâu sẽ kết hợp so sánh giữa kế hoạch và định mức; xác định mức độ chênh lệch, từ đó, tìm ra nguyên nhân dẫn đến chênh lệch chi phí và có biện pháp can thiệp kịp thời.
Bên cạnh đó, KTQT cung cấp thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định của chủ DN. Dựa vào các thông tin về chi phí mà KTQT cung cấp, chủ DN có thể đưa ra các quyết định liên quan như: lựa chọn cơ cấu sản xuất sản phẩm; quyết định lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh; định giá bán sản phẩm. Ngoài ra, trên cơ sở thông tin từ KTQT, chủ DN sẽ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị, như: tình hình thực hiện kế hoạch giá thành; tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của DN. Từ đó, sẽ giúp nâng cao năng lực quản trị, tài chính và hiệu quả sử dụng tài sản mà bên “cầu” (là các DNNVV) đáp ứng được theo yêu cầu của bên “cung” (là các ngân hàng). Chính vì vậy, việc không thiết lập hệ thống KTQT trong DNNVV sẽ khiến cho DN gặp phải một số hạn chế, cụ thể là:
Ưu tiên vào những mục tiêu ngắn hạn
Các DNNVV thường có mức độ lập kế hoạch chiến lược kém và quy trình ra quyết định không được chính thức hóa cùng với đó là sự thiếu hụt của các nguồn lực cần thiết. Do đó, các nhà quản lý tại các DNNVV luôn ưu tiên cho các mục tiêu ngắn hạn hơn mục tiêu dài hạn. Trong một số trường hợp nhất định, các nhà quản lý tại các DNNVV ngay lập tức giải quyết những mục tiêu ngắn hạn, trong khi kế hoạch chiến lược dài hạn sẽ chuyển sang danh sách việc cần làm trong tương lai.
Tri thức ẩn
Kiến thức của DNNVV chủ yếu đạt được thông qua kinh nghiệm. Có thể thấy rằng, trong các DNNVV, kiến thức đạt được thông qua kinh nghiệm và học hỏi ngầm của từng cá nhân. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy trình để giảm thiểu kiến thức ngầm bằng cách khuyến khích chia sẻ kiến thức qua các chức năng quản lý để đạt được tính cạnh tranh và hiệu quả chi phí là một điều cần thiết.
Kỹ năng quản lý kém
Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng, các DNNVV đầu tư ít hơn vào đào tạo và chú trọng phát triển quản lý hơn các công ty lớn. Trong các hoạt động quản lý của các DNNVV có liên quan chặt chẽ đến các kỹ năng của cá nhân của nhà quản lý. Thông thường, họ là những người giữ nhiều vai trò và phụ trách cả hai chức năng tổ chức hoạt động và xây dựng chiến lược. Tuy nhiên, họ thường không có thời gian và kỹ năng cần thiết, thường bỏ bê các vấn đề quản lý. Do đó, việc thiếu kỹ năng quản lý cản trở tăng trưởng kinh doanh và dẫn đến thất bại trong kinh doanh.
Định hướng kinh doanh
Các nhà quản lý DNNVV nên thiết lập mối quan hệ tốt để thu thập thông tin. Tuy nhiên, những nhà quản lý này thường không nhận thức được vai trò và cách thức để quản lý hiệu quả hoạt động của đơn vị. Đối với nhiều DN, quản lý đồng thời cũng là chủ sở hữu DN, khi đưa ra quyết định nào đó thường bị ảnh hưởng bởi ý chí, tư duy, lối sống của họ thay vì phát triển hoặc cải thiện hiệu quả hoạt động của DN.
Văn hóa chỉ huy và kiểm soát
Trong các DNNVV, thành công thường được nhận xét là xuất phát từ các kỹ năng của cá nhân hoặc của nhà quản lý thay vì bất kỳ quy trình quản lý cụ thể được xây dựng. Nhiều DNNVV được quản lý bởi chủ DN với tư cách là những người lãnh đạo chi phối, đặt ra phương hướng và điều hành DN dựa trên kinh nghiệm và ý thức chung, hay còn được gọi là phong cách quản lý và kiểm soát.
Nguồn lực hạn chế
Các DNNVV hạn chế về nguồn nhân lực, tài chính và thời gian nên thường gặp khó khăn với các vấn đề tiền mặt và thanh toán ngắn hạn. Thông thường, các DNNVV không có nguồn lực cần thiết để thực hiện nghiên cứu thị trường và thử nghiệm các sản phẩm và dịch vụ. Kết quả là, sự khan hiếm nguồn lực này đã dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của DNNVV.
Giải pháp áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Việc thiếu kỹ năng KTQT để ra quyết định là trở ngại lớn cho việc phát triển DNNVV và khó có khả năng tiếp cận tín dụng. Do đó, để vận dụng KTQT hiệu quả nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Về phía Nhà nước và Hội nghề nghiệp
- Nhà nước cần kết hợp với Hội nghề nghiệp nghiên cứu sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các văn bản có liên quan đến việc áp dụng KTQT trong DN, cần tạo hành lang pháp lý để thể hiện rõ ràng hơn quan điểm của Nhà nước về KTQT nhằm hỗ trợ, định hướng phát triển KTQT thông qua việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn giúp các DN xây dựng KTQT phù hợp, hữu ích cho hoạt động của DN.
- Nhà nước cần có những định hướng, xây dựng phát triển các chương trình đào tạo cụ thể về KTQT phù hợp với từng ngành kinh doanh, từng mô hình kinh doanh và hiệu quả khi áp dụng KTQT vào DN, để giúp các DN nhận thức rõ ràng hơn về việc áp dụng KTQT.
- Tăng cường sự hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp quốc tế về KTQT, nghiên cứu thành lập các dự án phát triển hệ thống KTQT tại Việt Nam, hình thành các sản phẩm hướng dẫn cụ thể hơn cho DN áp dụng; hỗ trợ tài chính cho các DN tiếp cận, học hỏi, nhận chuyển giao thành tựu KTQT ở các quốc gia phát triển như: Mỹ, Pháp... Hướng dẫn, phân loại, chuyển giao về các nhóm DN, các loại hình DN có tính tương đồng và phù hợp để thành lập các dự án phát triển KTQT tại Việt Nam.
Về phía các nhà quản lý doanh nghiệp
Một là, nhà quản lý DN cần thay đổi cách nhìn nhận về KTQT. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh để sắp xếp, tổ chức và xây dựng mô hình KTQT cho phù hợp với DN.
Hai là, xây dựng bộ máy kế toán phù hợp với cơ cấu quản lý của DN trên cơ sở kết hợp cả kế toán tài chính và KTQT. Xác định số lượng nhân viên kế toán cần thiết để đảm nhận khối lượng công việc kế toán của DN.
Ba là, DN cần xây dựng hệ thống KTQT như: hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách kế toán và hệ thống báo cáo KTQT cho phù hợp với công tác quản lý và đặc điểm sản xuất kinh doanh riêng của DN, dựa trên các mô hình KTQT đã được áp dụng của các DN trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, khi áp dụng hệ thống KTQT trong DN, cần phải quyết định xem việc tổ chức thực hiện KTQT như thế nào. Bộ phận nào trong DN chịu trách nhiệm thực hiện KTQT thì phải thỏa mãn một số yêu cầu: đảm bảo thông tin, chuẩn bị phương pháp luận, uy tín.
Bốn là, xây dựng hệ thống báo cáo quản trị trong DN, báo cáo của KTQT được sử dụng kết hợp với các báo cáo khác của DN như: báo cáo về thị trường, đối thủ cạnh tranh, công nghệ sản xuất... để có cái nhìn toàn diện hơn về các yếu tố đang tác động đến hoạt động của DN.
Năm là, hệ thống KTQT không có một quy chuẩn pháp lý chung nào về hình thức lẫn nội dung báo cáo. Do đó, DN phải tự xây dựng một hệ thống chỉ tiêu KTQT cụ thể theo mục tiêu quản trị đặt ra. Các chỉ tiêu này phải đảm bảo so sánh được giữa các thời kỳ để đưa ra được các đánh giá chính xác về thực tế tình hình hoạt động của DN.
Sáu là, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xử lý số liệu. Hiện nay nhiều DN vẫn chưa sử dụng một hệ thống phần mềm quản trị thống nhất, mà chỉ mới áp dụng phần mềm kế toán, nên việc lấy số liệu chỉ dừng ở việc tận dụng nguồn thông tin từ kế toán tài chính, trong khi chưa có sự liên kết giữa các bộ phận khác nhau.
Tài liệu tham khảo:
- Tổng cục Thống kê (2022), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2022;
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2021), Kết quả điều tra DNNVV năm 2021;
- World Bank (2020), Promoting digital and innovative SME financing.