Nâng hạng tín nhiệm quốc gia và triển vọng hệ thống ngân hàng Việt Nam
Có thể nói, trong những năm qua, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD), ổn định thị trường tiền tệ.
Mới đây ngày 14/5, Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings quyết định nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam. Cụ thể, mức xếp hạng mới được nâng lên một bậc từ mức “BB-” thành “BB”.
Không chỉ dừng ở đó, trần xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam cũng được hãng này nâng lên một bậc từ mức BB- thành BB, trong khi nợ ngắn hạn phát hành bằng nội tệ và ngoại tệ được xếp hạng B.
Cơ sở để Fitch Ratings nâng triển vọng lên tích cực dựa vào nhiều yếu tố quan trọng như Việt Nam đang xây dựng chính sách hướng đến mục tiêu ổn định vĩ mô.
Biện pháp này, bao gồm tỷ giá linh hoạt hơn và gia tăng tập trung vào ổn định lạm phát, đã giúp thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh.
Fitch Rating đánh giá Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã liên tục được cải thiện, tăng từ 37 tỷ USD (cuối năm 2016) lên mức kỷ luc 49 tỷ USD vào cuối năm 2017.
Theo Fitch Ratings, động lực đem lại sự cải thiện của dự trữ ngoại hối là nhờ việc áp dụng cơ chế tỷ giá mới vào đầu năm 2016 với mục tiêu tỷ giá linh hoạt hơn, để tài khoản vãng lai thặng dư lớn và thu hút dòng FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam.
Trước đó, năm 2017, GDP Việt Nam tăng 6,81% vượt mọi dự báo, cao nhất trong 6 năm trở lại đây - là thành quả nỗ lực chung của toàn nền kinh tế, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ.
Trong kết quả này có một phần đóng góp tích cực từ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong việc ổn định tỷ giá, chỉ đạo hệ thống ngân hàng giảm lãi suất, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đồng thời đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp.
Cũng trong năm 2017, nhiều tổ chức quốc tế đã đánh giá cao sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó Moody’s đã nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”.
Bloomberg đánh giá đồng Việt Nam là một trong những đồng tiền ổn định nhất khu vực châu Á. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 (Doing Business Report 2018) của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số Tiếp cận tín dụng (Getting credit) của Việt Nam xếp thứ hạng 29 trên tổng số 190 quốc gia được khảo sát, đạt 75 điểm trên thang điểm 100. So với năm 2017, chỉ số này đã tăng 5 điểm và cải thiện 3 bậc.
Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt
Tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa XIV, báo cáo bổ sung trước Quốc hội sáng 21/5 về kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, tình hình những tháng đầu năm 2018 và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình trình đã nhấn mạnh:
Chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống. Năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng được tăng cường, mở rộng quy mô, mạng lưới, phát triển các dịch vụ thanh toán, tín dụng bán lẻ, tiêu dùng…
Về điều hành chính sách tiền tệ, báo cáo của Chính phủ nêu rõ, chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống.
Mặt bằng lãi suất ổn định; tín dụng tập trung cho sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên với lãi suất giảm 0,5 - 1%. Bên cạnh đó, tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại hối nhà nước đạt 63,5 tỷ USD.
Trong điều hành tỷ giá, từ tháng 1/2016, NHNN thay đổi cách thức điều hành tỷ giá theo cơ chế mới, công bố tỷ giá trung tâm của VND với USD mỗi ngày.
Theo đánh giá của các chuyên gia, cơ chế điều hành tỉ giá mới linh hoạt hơn, bám sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước, nhờ đó giảm bớt những tác động từ thị trường thế giới, qua đó bảo đảm ổn định thị trường ngoại hối, ổn định chính sách tiền tệ.
Cách thức mới cũng giúp cung cầu ngoại tệ thông suốt, mua bán ngoại tệ dễ dàng cho doanh nghiệp hơn.
Do đó, những năm gần đây, tỷ giá và thị trường ngoại tệ nhìn chung ổn định, thị trường ngoại tệ tiếp tục được hỗ trợ từ nguồn cung ngoại tệ tương đối dồi dào, thanh khoản thị trường tốt, hệ thống các TCTD tiếp tục mua ròng ngoại tệ từ khách hàng, NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Tỷ giá ổn định, giá trị đồng Việt Nam được nâng cao, cùng với quy mô dự trữ ngoại hối Nhà nước đã góp phần quan trọng gia tăng niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước với điều hành chính sách của NHNN và môi trường đầu tư của Việt Nam.
Bên cạnh ổn định tỷ giá, việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất và phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Đầu năm 2018, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay đối với khách hàng tốt thuộc các lĩnh vực ưu tiên về mức tối đa 6%/năm đối với ngắn hạn và khoảng 9-10%/năm đối với trung dài hạn.
Với khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, lãi suất cho vay chỉ khoảng 5%/năm. Mặt bằng lãi suất về cơ bản được tiếp tục duy trì ổn định.
Đảm bảo nguồn vốn tín dụng đi đúng hướng, NHNN cũng chỉ đạo các TCTD kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng và linh hoạt điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tiễn, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Ngoài ra, với phương châm tạo điều kiện thuận lợi nhất, tiết giảm chi phí nhất cho người dân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng, công tác cải cách hành chính cũng được NHNN đặc biệt quan tâm, góp phần nâng cao chỉ số tiếp cận tín dụng quốc gia, gia tăng, uy tín môi trường đầu tư Việt Nam và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Mới đây, theo kết quả công bố về chỉ số cải cách hành chính năm 2017 của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2017, NHNN đạt chỉ số cao nhất với 92,36%. Đây là năm thứ 3 liên tiếp NHNN xếp vị trí số 1 về cải cách hành chính trong các Bộ ngành.
Tái cơ cấu ngân hàng đạt những kết quả quan trọng
Đối với lĩnh vực tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các TCTD, cũng tại báo cáo của Chính phủ cho rằng, cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD đạt được những kết quả quan trọng.
Các ngân hàng thương mại yếu kém được kiểm soát chặt chẽ, tập trung xử lý theo nguyên tắc thị trường.
Theo báo cáo của Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng (NHNN), đến nay, công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng đã đạt được một kết quả quan trọng như: sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD được giữ vững và từng bước cải thiện; năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các TCTD từng bước cải thiện; số lượng các TCTD có quy mô nhỏ, hoạt động yếu kém giảm dần;
Sở hữu chéo, đầu tư chéo được xử lý một bước quan trọng; khung pháp lý về tiền tệ và ngân hàng được tập trung hoàn thiện, hình thành đồng bộ hơn các chuẩn mực, thiết chế an toàn; nợ xấu tiếp tục được kiểm soát hiệu quả và duy trì ở mức dưới 3;
Các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) tiếp tục đóng vai trò chi phối trong hệ thống các TCTD; các NHTM Cổ phần tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện trên các mặt tài chính, quản trị và hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tran; các TCTD nước ngoài được NHNN tăng cường quản lý, thanh tra, giám sát, đảm bảo hoạt động an toàn, đúng pháp luật...
Có thể nói, trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện công tác tái cơ cấu và xử lý nợ xấu đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, bài bản, khoa học theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ..., tiếp tục đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần giữ vững sự ổn định và hoạt động an toàn hệ thống ngân hàng nói riêng, gia tăng niềm tin người dân và cac nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với hệ thống ngân hàng, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nói chung.