Nguồn lực tài chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam vẫn thấp

PV. (t/h)

Phát sinh rác thải nhựa đang là vấn đề lớn đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đang dành nguồn tài chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt thấp hơn so với mức khuyến nghị và so với quốc tế.

Việt Nam đang dành nguồn tài chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt thấp hơn so với mức khuyến nghị và so với quốc tế.
Việt Nam đang dành nguồn tài chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt thấp hơn so với mức khuyến nghị và so với quốc tế.

Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách góp phần quản lý, xử lý hiệu quả rác thải nhựa. Nhóm công tác hành động quốc gia về rác thải nhựa đã được thành lập và lên kế hoạch cụ thể để chuyển thể các chính sách thành hành động, qua đó góp phần quản lý rác thải nhựa một cách hiệu quả.

Tuy nhiên, chia sẻ tại hội thảo “Tăng cường hợp tác đa bên nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn về nhựa ở Việt Nam” do Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc tổ chức mới đây, ông Ashraf El-Arini – Đại diện Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng, Việt Nam đang dành nguồn tài chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt thấp hơn so với mức khuyến nghị và so với quốc tế.

Theo đại diện của WB, mỗi năm Việt Nam chi hơn 14.300 tỷ đồng cho xử lý rác sinh sinh hoạt, bằng 0,23% GDP, thấp hơn một nửa so với chi tiêu toàn cầu (0,5% GDP). Nguồn kinh phí vận hành hiện có đủ để trang trải chi phí thu gom và vận chuyển song không đủ cho chi phí xử lý và tiêu hủy.

Hiện nay, có hai nguồn kinh phí chính cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam là ngân sách nhà nước và phí vệ sinh môi trường. Năm 2020, ngân sách nhà nước phân bổ cho xử lý rác tổng cộng 10.897 tỷ đồng (gồm 9.104 tỷ cho vận hành và 1.793 tỷ đồng cho đầu tư). Phí vệ sinh môi trường trong cùng năm ước tính là 3.439 tỷ đồng.

WB đưa ra ba kịch bản giải pháp quản lý chất thải rắn ở Việt Nam, tương ứng với mức đầu tư từ thấp đến cao. Thứ nhất là ở mức thấp khi hệ thống quản lý chất thải rắn cơ bản được hiện đại hóa, ứng với mức chi phí 27.700 tỷ đồng (tăng 154%). Thứ hai là kịch bản giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế tại nguồn, ứng với mức chi phí gần 49.000 tỷ đồng (tăng 350%). Thứ ba là kịch bản dùng công nghệ xử lý chất thải tiên tiến, mức chi phí gần 89.000 tỷ đồng (tăng 720%).

Thực tế này cho thấy, nếu không thay đổi cơ cấu nguồn chi cho xử lý rác thải rắn thì chỉ với kịch bản thứ nhất, ngân sách nhà nước sẽ phải chịu gánh nặng lớn. Do đó, Việt Nam nên cân bằng nguồn đầu tư xử lý rác từ ngân sách nhà nước, thu phí từ người dân và khuyến khích tư nhân tham gia.

Ông Ashraf El-Arini khuyến nghị Việt Nam nên kết hợp cân bằng giữa phân bổ kinh phí từ ngân sách nhà nước và phí vệ sinh môi trường theo hướng sử dụng ngân sách nhà nước để cung cấp vốn đầu tư và phí vệ sinh môi trường được sử dụng để trang trải chi phí vận hành. Phí vệ sinh môi trường có thể trang trải toàn bộ chi phí vận hành của kịch bản 1 (0,45% thu nhập trung bình) và kịch bản 3 (0,74%). Đồng thời, chuyển nguồn ngân sách nhà nước 10.897 tỷ đồng từ chi phí vận hành cho chi phí đầu tư hàng năm là 7.986 tỷ đồng trong kịch bản 1 và còn lại 2.911 tỷ đồng cho các khoản đầu tư quan trọng khác.

Điều này sẽ thu hút nguồn tài chính và sự tham gia của khu vực tư nhân vào hoạt động xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Đồng thời, giải phóng nguồn lực cho các khoản đầu tư thiết yếu không thể huy động từ các nguồn tư nhân và thực hiện các giải pháp khuyến khích, ưu đãi để giảm phát sinh chất thải và tác động đến hành vi của người dùng.

Đại diện của WB cũng cho rằng, việc thiếu hụt tài chính đầu tư của Nhà nước có thể được đảm bảo từ các nhà đầu tư bên ngoài, các quỹ và tổ chức tài chính quốc tế. Khả năng tiếp cận các quỹ như vậy sẽ được cải thiện đáng kể nếu chi phí hoạt động được chi trả toàn bộ hoặc một phần bằng phí vệ sinh môi trường. Phần thiếu hụt còn lại cần phải được bảo đảm từ các nguồn tài chính công.