OECD "hiến kế" giúp Việt Nam thúc đẩy thị trường vận tải hàng hóa và ngành logistics
OECD đã nêu ra 36 khuyến nghị về các quy định pháp luật cụ thể cần được loại bỏ hoặc sửa đổi nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn đọng vốn đang "níu chân" sự phát triển của thị trường vận tải hàng hóa và logistics Việt Nam.
Năm 2019, thị trường vận tải hàng hóa và logistics Việt Nam ước tính đạt 61,83 tỷ USD, dự kiến tốc độ tăng trưởng hàng năm 4,89% vào năm 2025. Xét về kết quả hoạt động logistics tổng thể, Việt Nam xếp thứ 39 về chỉ số hiệu suất logistics toàn cầu theo Ngân hàng Thế giới và thứ ba trong số các nước ASEAN.
Nhận ra tầm quan trọng của ngành logistics trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã thông qua Kế hoạch hành động cho nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025, bao gồm các mục tiêu đầy tham vọng về cơ sở hạ tầng, chính sách, năng lực kinh doanh và nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, mới đây, theo báo cáo "Đánh giá Cạnh tranh của OECD: Ngành Logistics tại Việt Nam", Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã nhận định rằng chi phí logistics ở Việt Nam cao hơn đáng kể so với các nước trong ASEAN, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chi phí logistics tại Việt Nam đang cao hơn các quốc gia trong khu vực. Cụ thể, vào năm 2017, chi phí logistics tính theo phần trăm GDP của Việt Nam ước tính là 18%. Con số này thấp hơn Philippines (27,2%), nhưng cao hơn đáng kể so với Thái Lan (8,5%) hoặc các nước phát triển khác. Trong khi đó, logistics chiếm 30 - 40% chi phí sản xuất kinh doanh, vì vậy, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trở nên kém cạnh tranh hơn so với các quốc gia khác.
Tại báo cáo, OECD đã nêu ra 36 khuyến nghị về các quy định pháp luật cụ thể cần được loại bỏ hoặc sửa đổi nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn đọng vốn đang ‘níu chân’ sự phát triển của thị trường vận tải hàng hóa và logistics Việt Nam.
Theo đó, tổ chức này tập trung vào 5 nhóm vấn đề liên quan tới vận tải hàng hóa đường bộ, vận tải hàng hóa đường biển, vận tải hàng hóa đường sắt, giao nhận và kho bãi.
Đối với vận tải hàng hóa đường bộ, OECD khuyến nghị cần loại bỏ một số yêu cầu về số lượng phương tiện tối thiểu, quy định thông báo trước về giá để giảm gánh nặng hành chính và cho phép giá điều chỉnh linh hoạt với điều kiện thị trường cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường các tự do hóa trong lĩnh vực vận tải đường bộ với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, hạn chế các rào cản thị trường...
Đối với vận tải hàng hóa đường biển, tổ chức này cũng cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng sửa đổi luật để tăng cạnh tranh trong vận chuyển hàng hóa nội địa; cân nhắc tới việc dỡ bỏ lệnh cấm tàu nước ngoài chở hàng nội địa, thông qua cơ chế "có đi có lại" hoặc cho phép các tàu từ các thành viên ASEAN hoặc cho phép các tàu quốc tế hoạt động trên các tuyến đường cụ thể khi có nhu cầu.
OECD khẳng định, khi yếu tố này được thực hiện hoá, nó chắc chắn sẽ thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp ở thị trường vận tải trong nước. Đáng chú ý, Việt Nam cũng cần xóa bỏ tỷ lệ phí cảng tối thiểu nhưng xem xét ở mức hợp lý cho phép các nhà khai thác thu hồi chi phí, đảm bảo lợi nhuận.
Đối với vận tải đường sắt, OECD khuyến nghị việc tách chức năng quản lý cơ sở hạ tầng đường sắt với chức năng cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa bằng đường sắt, qua đó cho phép sự tham gia của nhiều công ty tham gia khai thác thị trường vận tải hàng hóa bằng đường sắt một cách công bằng và không phân biệt đối xử.
Đối với giao nhận vận tải, Việt Nam nên cho phép các doanh nghiệp nước ngoài sở hữu giấy phép vận tải đa phương thức tại đây mà không cần giữ giấy phép ở một nước ASEAN khác, khi đó, các nhà khai thác nước ngoài mới sẽ giảm được chi phí đầu vào và gánh nặng hành chính.
Cuối cùng, về kho bãi, OECD cho rằng Việt Nam cần nâng cao hiệu quả của việc phân bổ và quản lý đất đai bằng các chính sách cập nhật, công khai và minh bạch. Điều này cho phép các công ty chủ động thời gian và chi phí đầu tư, giảm thiểu các rủi ro bất thường liên quan tới kho bãi.
Đặc biệt, Việt Nam nên mở rộng hơn nữa các thủ tục trong cơ chế một cửa quốc gia với mục đích giảm thiểu thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, qua đó giảm chi phí thấp hơn cho các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.