Phát huy vai trò của tài chính vi mô đối với phụ nữ nghèo
Hiện nay, ở Việt Nam có hàng trăm tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, ngày càng khẳng định rõ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công cuộc xóa đói, giảm nghèo nói riêng. Thời gian tới, Việt Nam tiệp tục triển khai nhiều giải pháp trọng tâm để thúc đẩy phát triển mô hình này.
Công cụ đắc lực trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo
Với vai trò là một công cụ đắc lực trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tài chính vi mô (TCVM) đã giúp Chính phủ đạt được thành tích đáng kể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Theo đó, tỷ lệ đói nghèo tại Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn khoảng 6,72% vào cuối năm 2017.
Hoạt động TCVM được đánh giá là có ý nghĩa xã hội sâu sắc và ngày càng lớn mạnh, giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận và làm quen với các sản phẩm tài chính. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu ở khu vực TCVM là khá thấp (dưới 1%), còn các khoản vay giá trị thấp cũng giúp các tổ chức cung cấp TCVM phân tán rủi ro hiệu quả hơn.
Trong những năm qua, hoạt động TCVM tại Việt Nam được biết đến là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống tài chính và là một trong những công cụ xóa đói, giảm nghèo hữu hiệu. Khách hàng chủ yếu của TCVM là nhóm dân số có thu nhập thấp, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ.
Thực tiễn cho thấy, với điều kiện vay vốn đơn giản, không cần tài sản thế chấp, cấp và nhận vốn ngay tại nơi người dân sinh sống, TCVM được xem như một "đòn bẩy" hữu hiệu nhằm tăng cường sự tự tin của phụ nữ, thúc đẩy họ tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, thoát nghèo, từ đó khẳng định vai trò và vị thế trong gia đình và xã hội.
Nhằm thúc đẩy mô hình này phát triển, các dịch vụ tài chính cho phép phụ nữ tối đa hóa lợi ích của thu nhập tiền mặt bằng cách biến thu nhập tiền mặt thành một nguồn thu nhập lớn có ý nghĩa dưới dạng tài sản có thể được đầu tư, cho vay lại hoặc sử dụng như một khoản bảo hiểm. Các chương trình TCVM đặc biệt hữu ích trong việc gia tăng lựa chọn kinh tế của phụ nữ do phụ nữ thường có ít cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng phi chính thức hơn nam giới.
Thực tế đã chứng minh, việc tham gia vào các chương trình tiết kiệm và tín dụng giúp trao quyền cho phụ nữ bằng cách tăng phần đóng góp của phụ nữ vào thu nhập của hộ gia đình và giúp họ vươn ra thế giới bên ngoài. Tăng thu nhập cũng đồng nghĩa với việc trao cho phụ nữ nhiều quyền hơn trong gia đình, tăng nhận thức chính trị, xã hội, từ đó giúp họ có địa vị tốt hơn trong xã hội. Do đó, một trong những kết quả của việc tham gia của phụ nữ vào các chương trình TCVM là gia tăng lòng tự trọng và ý thức về giá trị của bản thân.
Mặc dù, đã có những bước tiến nhất định, nhưng thực tiễn hoạt động TCVM tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như: Hoạt động TCVM còn khá manh mún, sản phẩm, dịch vụ chưa đa dạng, các chỉ số bền vững hoạt động và tài chính của các tổ chức TCVM chưa cao, đặc biệt khuôn khổ pháp lý chưa toàn diện, thiếu thống nhất...
Hơn nữa, công tác tư vấn, hỗ trợ, giáo dục về quản lý tài chính cho khách hàng TCVM nói chung và cho phụ nữ trong hộ gia đình nói riêng còn khiêm tốn. Những hạn chế này tác động không tốt tới cơ hội phát triển kinh tế lâu dài của hộ gia đình, trong đó có người phụ nữ.
Tiếp tục phát huy vai trò của tài chính vi mô đối với phụ nữ nghèo
Để phát huy vai trò của TCVM giúp phụ nữ nghèo nâng cao đời sống, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, sớm ban hành đầy đủ hành lang pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động TCVM phát triển bền vững. Có cơ chế chính sách khơi thông nguồn vốn cho TCVM là một kênh cung cấp vốn cho phụ nữ nghèo sản xuất, kinh doanh, có cơ hội thoát nghèo. Tuy nhiên, để các hộ nghèo thoát nghèo, nguồn vốn tài chính chỉ là một yếu tố, mà quan trọng hơn giúp họ có những kiến thức về sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính, sử dụng nguồn vốn hiệu quả…
Trong bối cảnh bùng nổ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu đặt ra là cần có những hỗ trợ thiết thực với các tổ chức TCVM trong việc ứng dụng công nghệ số. Liên kết các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ, dựa trên nền tảng công nghệ số.
Qua đó, một mặt đa dạng hóa các kênh phân phối, phát triển sản phẩm, dịch vụ sáng tạo hơn; mặt khác đưa sản phẩm đến với khách hàng là phụ nữ tại các khu vực, vùng sâu vùng xa tốt hơn.
Thứ hai, xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng thanh toán điện tử tạo điều kiện để phụ nữ dễ dàng tiếp cận tài chính. Theo đó, cần cải thiện cơ sở hạ tầng hệ thống thanh toán để bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế quốc gia; sử dụng hiệu quả hơn công nghệ, đổi mới và tăng trưởng mạng lưới tiếp cận bán lẻ để truyền thông tới các nhóm dân số còn chưa được phục vụ hợp lý và để cải thiện việc sử dụng và giảm chi phí của các dịch vụ thanh toán (kể cả chuyển tiền). Đồng thời, tạo ra những đổi mới mở rộng như thị trường số hóa và hình thành quan hệ đối tác hiệu quả.
Thứ ba, các tổ chức TCVM cần đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Đối với dịch vụ cho vay, cần phát triển các sản phẩm phù hợp cho vay nhỏ lẻ như cho vay trả góp, lưu vụ với mức lãi suất có tích lũy. Đối với các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền… cần phát triển theo nhu cầu và năng lực của tổ chức TCVM. Trong tương lai, cần đẩy mạnh phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động.
Thứ tư, các tổ chức TCVM phải chủ động hơn nữa trong việc tuyển dụng phụ nữ. Cán bộ tín dụng là nữ giới có thể cần thiết để phục vụ các khách hàng nữ tại những nơi mà chuẩn mực văn hóa không cho phép giao tiếp giữa nam và nữ. Bên cạnh dịch vụ tài chính, các tổ chức TCVM có thể xem xét đến việc cung cấp các dịch vụ phi tài chính dưới hình thức đối tác với các tổ chức phi chính phủ chuyên biệt, chẳng hạn như dịch vụ trung gian tài chính, dịch vụ phát triển doanh nghiệp và đào tạo.