Phát triển kinh tế xanh gắn với bảo vệ đại dương để phục hồi tăng trưởng kinh tế

Xuân Trường

Ở Việt Nam, kinh tế biển và các tỉnh, thành phố ven biển chiếm gần một nửa GDP. Bảo vệ và phát triển nền kinh tế xanh, bảo vệ đại dương không bị xâm hại, có khả năng phục hồi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế không chỉ là thách thức đối với Việt Nam, mà đối với cả thế giới.

Ô nhiễm đại dương, đặc biệt là nhựa và rác thải biển đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người và biển. Nguồn: Internet.
Ô nhiễm đại dương, đặc biệt là nhựa và rác thải biển đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người và biển. Nguồn: Internet.

Đại dương và nguy cơ ô nhiễm rác thải nhựa

Bao phủ hơn 3/4 hành tinh, các đại dương hấp thụ tới 30% lượng khí cacbonic do con người tạo ra - một nguyên nhân lớn tác động tới hiện tượng ấm lên toàn cầu. 

Giống như không khí sạch và nước ngọt, các đại dương với vai trò là hệ sinh thái quan trọng và lớn nhất trên hành tinh, có tầm quan trọng không gì sánh được. Hơn 3 tỷ người phụ thuộc vào các hệ sinh thái biển, ven biển và đa dạng sinh học để kiếm sống.

Nền kinh tế xanh toàn cầu, bao gồm dầu và khí đốt, thủy sản, du lịch ven biển và biển, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo và các hệ sinh thái biển và ven biển đóng góp khoảng 3.000 tỷ USD mỗi năm, tương đương khoảng 5% GDP của thế giới. 

Tuy nhiên, các đại dương đang phải đối mặt với những mối đe dọa nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu và đang dần trở nên chua hơn, mất oxy và nóng lên. Các chỉ số chính, từ chất lượng nước và môi trường đến đa dạng hệ sinh thái và năng suất đều giảm. 

Mực nước biển dâng đang đe dọa sự tồn tại của các quốc đảo nhỏ đang phát triển, đồng thời sinh kế và cơ sở hạ tầng ven biển cũng đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng. Nếu không sớm được kiểm soát, những nguyên nhân này sẽ có tác động tàn khốc đối với cả cuộc sống dưới biển và cuộc sống trên cạn, ảnh hưởng tới sự tồn tại của con người và hành tinh chúng ta. 

Ngoài ra, ô nhiễm đại dương, đặc biệt là nhựa đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người và biển. Trên toàn cầu, ước tính có khoảng 8 triệu đến 20 triệu tấn nhựa thải vào đại dương mỗi năm và vi nhựa hiện đã được tìm thấy trong các chuỗi thức ăn biển ở độ sâu cực đại. Hơn nữa, những vi lượng chất dẻo này hiện đã có trong máu của người.

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.000km, kinh tế biển và các tỉnh, thành phố ven biển chiếm gần một nửa tổng sản phẩm quốc nội. Các đánh giá gần đây cho thấy, nếu mực nước biển dâng 1m, sẽ ảnh hưởng đến 11% dân số Việt Nam và 7% diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng có thể khiến 38‐46% dân số Việt Nam phải hứng chịu lũ lụt.

Tại Việt Nam, ước tính có khoảng 3,7 triệu tấn chất thải nhựa được tạo ra mỗi năm, trong đó chỉ 10-15% được tái chế. Khoảng 2.000 tấn rác thải nhựa từ trong nước rò rỉ ra đại dương mỗi ngày.

Tuy nhiên, việc loại bỏ các mảnh vụn nhựa từ đáy đại dương sẽ giống như di chuyển các ngọn núi. Trong nỗ lực tìm cách loại bỏ này, vấn đề sản xuất nhựa cũng phải được giải quyết tận gốc trước khi gây ô nhiễm thêm cho đại dương và cuộc sống con người.

Việt Nam hướng tới nền kinh tế xanh bền vững 

Là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam quyết tâm đóng góp một phần vào công cuộc ứng phó với khí hậu toàn cầu. 

Tại Hội nghị COP26 ở Glasgow tháng 11/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính cam kết Việt Nam sẽ đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. 

Để hướng tới mục tiêu đó, Việt Nam đang xây dựng các kế hoạch mạnh mẽ để phát triển bền vững nền kinh tế xanh, đảm bảo các lợi ích do đại dương mang lại có thể được bảo vệ, gìn giữ và cải thiện để cung cấp cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. 

Đây sẽ là chìa khóa quan trọng để Việt Nam đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững vào năm 2030. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã giao Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam làm việc với các đối tác để xây dựng chiến lược phát triển bền vững đối với nền kinh tế hàng hải.

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đang hỗ trợ Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam xác định và đánh giá tiềm năng của 6 ngành kinh tế biển đối với nền kinh tế xanh, bằng cách đánh giá sự đóng góp của các ngành này đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Các dự án khác của UNDP trong nước, chẳng hạn như quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICM) - kết hợp quản lý các hoạt động của con người với bảo vệ các hệ sinh thái quan trọng - hỗ trợ phát triển bền vững, bao gồm quản lý vùng biển và ven biển, lưu vực sông và các hệ sinh thái liên quan khác. 

Cùng với tiềm năng rất lớn của ngành đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, phát triển năng lượng tái tạo biển, đặc biệt là gió ngoài khơi, các dịch vụ hệ sinh thái đa dạng sinh học và du lịch, Việt Nam phải giữ cân bằng tăng trưởng giữa các lĩnh vực liên kết chặt chẽ này, vì sự phát triển của một ngành có thể tác động đến những đối tượng khác.

Vì vậy, cần có quy hoạch không gian biển quốc gia mạnh mẽ và toàn diện, bao gồm cả quy hoạch tổng thể vượt qua ranh giới cấp tỉnh, nhằm tập trung ưu tiên đầu tư công và khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ xanh, để phát triển các lĩnh vực như năng lượng gió và thủy triều ngoài khơi, công nghiệp, giao thông vận tải và du lịch biển ven biển.

Việc thúc đẩy các giải pháp dựa vào thiên nhiên vẫn là điều cần thiết, đặc biệt, khi biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc độ và quy mô cao hơn dự đoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Đến nay, Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc thiết lập một hệ thống khu bảo tồn toàn diện, bao gồm 16 khu vực biển, chiếm khoảng 12 triệu ha đất ngập nước, cung cấp sinh kế chính và thu nhập bổ sung cho khoảng 20 triệu người, đồng thời là các “vùng đệm” chống triều cường, ngăn chặn xâm nhập mặn và hoạt động như những “bể chứa” các-bon.

Cùng với đó, trong dự án chống chịu ven biển, UNDP đang hỗ trợ Việt Nam phục hồi và tái sinh 4.000 ha rừng ngập mặn ven biển để bảo vệ các cộng đồng dễ bị tổn thương và sinh kế...