Quản lý rủi ro thanh khoản tại các chi nhánh ngân hàng thương mại tỉnh Thái Nguyên
Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý rủi ro thanh khoản ở các chi nhánh ngân hàng thương mại tại Thái Nguyên nhóm tác giả thấy rằng, phần đa các chi nhánh này chưa có bộ phận quản lý rủi ro riêng biệt, chủ yếu sử dụng cán bộ kiêm nhiệm, một số chỉ tiêu đánh giá rủi ro thanh khoản chưa đạt yêu cầu về chỉ số trạng thái tiền mặt, về tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động…điều này đã ảnh hưởng khá lớn đến thanh khoản của ngân hàng. Trên cơ sở nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm giúp các ngân hàng chủ động hơn trong công tác quản lý rủi ro thanh khoản, hạn chế những tổn thất khi xảy ra các vấn đề liên quan đến rủi ro thanh khoản.
Đặt vấn đề
Bài viết tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý rủi ro thanh khoản (RRTK) tại các chi nhánh ngân hàng thương mại (NHTM) trên địa bàn Thái Nguyên trong giai đoạn 2012 - 2017 thông qua đánh giá các chỉ tiêu RRTK; cách thức thực hiện hoạt động quản lý RRTK. Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu như: Chỉ số trạng thái tiền mặt, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động…, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quản lý RRTK của các NHTM. Bên cạnh, công tác đánh giá quy trình, mức độ thực hiện hoạt động quản lý RRTK tại mỗi chi nhánh còn có sự khác biệt, chưa thống nhất. Từ thực trạng này, bài viết chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế trong quản lý RRTK tại các chi nhánh NHTM trên địa bàn Thái Nguyên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm giúp các ngân hàng chủ động hơn trong công tác quản lý RRTK, hạn chế những tổn thất khi xảy ra các vấn đề liên quan đến RRTK.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu
- Phương pháp thu thập số liệu: Nhóm tác giả dựa vào những tài liệu có sẵn trên báo, đài, internet; tư liệu trong sổ sách, báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của các NHTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu: Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp số liệu vào bảng, biểu, đồ thị bằng phương pháp, phân tổ thống kê, đồ thị để dễ dàng đánh giá và đưa ra những đặc điểm riêng biệt thông qua các số liệu đã thu thập. Sau đó, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích sự biến động các kết quả liên quan đến huy động vốn, cho vay, chi phí, lợi nhuận qua các năm, giữa các hình thức mà ngân hàng sử dụng để thu hút dòng tiền.
Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá rủi ro thanh khoản
- Hệ số vốn an toàn tối thiểu CAR (hệ số Cooke): Đo lường tỷ lệ Vốn tự có/Tài sản Có quy đổi theo mức độ rủi ro khác nhau (Nguyễn Đắc Hưng, 2008).
- Chỉ số trạng thái tiền mặt được tính bằng (Tiền mặt + tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) + tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng (TCTD))/tổng tài sản Có. Chỉ số này càng cao thì khả năng thanh khoản tốt.
- Chỉ số năng lực cho vay: Được tính bằng Dư nợ/tổng tài sản Có, phản ánh mức độ cho vay trên tổng tài sản Có của ngân hàng. Chỉ số này càng cao, khả năng thanh khoản càng thấp.
- Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động: Dư nợ/tiền gửi khách hàng. Chỉ tiêu này phản ánh ngân hàng cho vay được bao nhiêu so với nguồn vốn huy động, cho biết hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng (Nguyễn Văn Tiến, 2010).
- Chỉ số vị thế ròng của các ngân hàng trên thị trường 2: Được tính bằng tiền gửi và cho vay các TCTD khác/tiền gửi và vay từ các TCTD khác. Chỉ số này càng cao cho thấy, tính thanh khoản của ngân hàng tốt.
Kết quả nghiên cứu
Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng
Thời gian qua, NHNN đã ban hành nhiều hướng dẫn liên quan đến hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản, gần nhất là Thông tư số 19/2017/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này là văn bản mới nhất, có giá trị và gần với tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến quản lý rủi ro tín dụng nhất. Đối với quy định liên quan đến tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn, Thông tư số 19/2017/TT-NHNN đã giảm tỷ lệ cho vay này từ mức 50% hiện nay xuống còn 45% (từ ngày 1/1/2018) và xuống 40% (từ 1/1/2019); với các TCTD phi ngân hàng, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn từ ngày 1/1/2018 là 90%.
Quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng trên địa bàn Thái Nguyên
Hệ số CAR: Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hiện tại, hệ số an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư số 3/2010/TT-NHNN là 9%. Giai đoạn 2012 – 2017, hệ số CAR trung bình của hệ thống NHTM và các NHTM niêm yết đều đảm bảo quy định, lớn hơn 9%. Đồng thời, hệ số CAR của các NHTM có xu hướng tăng lên. Cần lưu ý, để tăng hệ số CAR lên 1% thì hệ số rủi ro của một số tài sản “Có” phải được nâng lên, mức cao nhất là 250%, do đó, các ngân hàng phải duy trì mức vốn cao hơn nhiều so với trước đây. Hiện nay, hệ số CAR tại của các NHTM Việt Nam có sự phân hóa rõ nét giữa các NHTM lớn và các NHTM nhỏ. Trong thời gian tới, nếu Việt Nam tuân theo Hiệp ước Basel III thì để hệ số CAR đảm bảo yêu cầu thì các NHTM phải định hướng cụ thể đối với các chi nhánh trên cả nước mới có thể đáp ứng quy định.
Chỉ số trạng thái tiền mặt: Tính hết năm 2017, trên địa bàn Thái Nguyên có 125 máy rút tiền tự động ATM và 279 máy POS được kết nối liên thông. Điều này đòi hỏi ngân hàng cần xác định được nhu cầu sử dụng tiền mặt bình quân của khách hàng để đưa ra tỷ lệ tồn quỹ cho hợp lý. Giai đoạn từ 2012 - 2017, Chính phủ điều chỉnh chính sách theo hướng kiềm chế lạm phát và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, do vậy lãi suất giảm, nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng giảm. Tính đến tháng 12/2017 lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng dao động trong khoảng 5%. Theo đó, chỉ số trạng thái tiền mặt của các ngân hàng đều giảm sút.
Chỉ số năng lực cho vay: Chỉ số năng lực cho vay (Dư nợ/tổng tài sản “Có”) phản ánh năng lực cho vay của các NHTM. Giai đoạn 2012 – 2017, chỉ số này tại các NHTM dao động từ 35% - 79% và có sự khác biệt giữa các ngân hàng theo từng năm. Tuy nhiên, đa số các NHTM có chỉ số năng lực cho vay trên 50%. Kết quả này phản ánh hoạt động chủ yếu của các chi nhánh NHTM trên địa bàn Thái Nguyên vẫn là hoạt động tín dụng. Như vậy, rủi ro dễ thấy nhất là rủi ro lãi suất.
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động (LDR): Việc sử dụng mối quan hệ giữa cho vay và tiền gửi như một thước đo về thanh khoản. Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ này tại các NHTM trên địa bàn Thái Nguyên giảm chậm, dao động quanh mức 70 – 97%, điều này phản ánh sự phụ thuộc của hoạt động cho vay đối với nguồn huy động vốn.
Vị thế ròng của các NHTM trên thị trường 2 (thị trường giao dịch với NHNN và các TCTD khác): Chỉ tiêu này lớn hơn 1 thể hiện NHTM này là NHTM cho vay nhiều hơn trên thị trường 2. Nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thể hiện NHTM này là NHTM đang đi vay nhiều hơn trên thị trường 2. Trên địa bàn Thái Nguyên hiện có một số NHTM chuyên cho vay trên thị trường 2 như: BIDV, Vietcombank, Sài Gòn Thương tín, MB Bank… Có 2 cách giải thích thực trạng này: (1) Các chi nhánh này có khả năng thanh khoản tốt nhờ vào uy tín, thương hiệu cuả mình; (2) Có thể có những chi nhánh mà khả năng huy động vốn rất tốt nhưng khả năng mở rộng tín dụng không tốt bằng khiến dư thừa vốn và cho vay lại trên thị trường 2. Trong 2 cách giải thích này, nhóm tác giả nghiêng về cách giải thích thứ nhất.
Tổ chức và thực hiện nguyên tắc quản lý rủi ro thanh khoản
Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tập trung: RRTK ở các ngân hàng được quản lý tập trung, trong đó HĐQT là đơn vị chịu trách nhiệm cao nhất trong quản lý rủi ro và là đơn vị có thẩm quyền ban hành chính sách quản lý RRTK. Công tác giám sát và vận hành hệ thống quản lý RRTK được phân công cho Ủy ban Quản lý rủi ro và Ủy ban Quản lý Tài sản nợ - Tài sản có (ALCO). Trong đó, Ủy ban Quản lý rủi ro có trách nhiệm giám sát công tác tuân thủ và các hạn mức quản lý RRTK được phê duyệt và điều hành bởi ALCO.
Chức năng và nhiệm vụ của các đơn vị tham gia trong công tác quản lý rủi ro thanh khoản: Công tác quản lý rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng luôn có sự phân cấp rõ ràng, trong đó ALCO là đơn vị kiểm soát – điều hành, có trách nhiệm phê duyệt, ban hành các quyết định liên quan đến việc điều hành thanh khoản; đồng thời, xem xét và đánh giá công tác quản lý RRTK của các đơn vị chịu trách nhiệm.
Quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại
Nhờ hình thức phân cấp quản lý trực tiếp nên khi xảy ra các vấn đề liên quan đến thanh khoản sẽ được Ban Giám đốc nắm bắt và có hướng giải quyết, tránh những tổn thất không đáng có. Lượng vốn huy động luôn tăng qua các năm, đã giúp cho các chi nhánh yên tâm trong hoạt động giao dịch. Hệ số CAR luôn trên 9% thỏa mãn yêu cầu của Basel II, điều đó đồng nghĩa với việc khả năng thanh toán của các ngân hàng luôn ở mức độ an toàn và các chi nhánh chủ động được nguồn tiền của mình…
Tuy nhiên, công tác cập nhật và giải quyết RRTK tại chi nhánh còn chậm. Một số chỉ tiêu đánh giá RRTK tại các NHTM chưa đạt yêu cầu như: Chỉ số trạng thái tiền mặt giảm sút, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động luôn ở mức cao… Quy trình, mức độ thực hiện hoạt động quản lý RRTK tại mỗi chi nhánh còn có sự khác biệt, chưa thống nhất. Phần lớn chưa có phòng ban chuyên về quản trị RRTK, chủ yếu quản lý theo cơ chế tập trung toàn hệ thống tại Ủy ban Quản lý rủi ro trong Hội sở chính, do vậy, các chỉ số thanh khoản chưa được tính toán và theo dõi thường xuyên, năng lực kiểm tra, giám sát của các ngân hàng hiện nay còn yếu.
Kết luận
Những năm qua, NHNN đã ban hành các văn bản hướng dẫn, yêu cầu sự đảm bảo an toàn trong hoạt động. Các NHTM dần hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý rủi ro để chủ động hơn khi có các tình huống bất lợi xảy ra. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng thanh khoản tại một số ngân hàng chưa đạt yêu cầu, nhiều NHTM xây dựng hệ thống quản lý RRTK còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao… Trong thời gian tới, các NHTM nói chung và chi nhánh ngân hàng tại Thái Nguyên nói riêng cần có giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện công tác quản lý RRTK, cụ thể:
- Đa dạng hóa các hình thức huy động và cho vay: Chủ động nguồn tài chính, hạn chế sự mất cân đối trong hoạt động vay – đi vay, hạn chế RRTK.
- Áp dụng chiến lược quản trị cân đối thanh khoản tài sản “Có” - tài sản “Nợ”: Nâng tỷ lệ đầu tư đối với các tài sản có tính thanh khoản cao; cân đối cơ cấu giữa huy động và cho vay.
- Tăng cường năng lực quản lý RRTK của nhân viên ngân hàng: Tập trung cho công tác đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo chuyên sâu với đội ngũ cán bộ nòng cốt; xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi…
- Nâng cao mức độ an toàn vốn: Xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm với sử dụng vốn hợp lý; cân nhắc, chọn lựa cổ đông chiến lược trong và ngoài nước để bán cổ phiếu; Lãnh đạo ngân hàng cũng nên chú ý vấn đề quản lý đòn bẩy tài chính.
- Thiết lập bộ phận quản trị rủi ro trong ngân hàng: Tính toán hợp lý các chỉ số thanh khoản, dự báo nhu cầu thanh khoản để chủ động trong nguồn cung.
Tài liệu tham khảo:
Thông tư số 19/2017/TT-NHNN ngày 28/12/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
Báo cáo kết quả kinh doanh thường niên của hệ thống ngân hàng giai đoạn 2012 – 2017;
Nguyễn Bảo Huyền (2016), “Rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ Học viện Ngân hàng, Hà Nội;
Nguyễn Đắc Hưng (2008), “Trao đổi về quản trị rủi ro thanh khoản các ngân hàng thương mại”, Tạp chí Ngân hàng, số 24, tr 25 -30;
Hoàng Xuân Phong (2014), “Quản trị rủi ro thị trường tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ Học viện Ngân hàng, Hà Nội;
Basel (2008), Nguyên tắc quản lý và giám sát rủi ro thanh khoản.