Quản trị rủi ro thanh khoản tại một số ngân hàng trên thế giới và bài học cho Việt Nam
Quản trị thanh khoản là quá trình ngân hàng sử dụng các chính sách, các công cụ, các kỹ thuật, nhằm kiểm soát rủi ro thanh khoản và đảm bảo khả năng sinh lời của ngân hàng đã được xác định trong từng giai đoạn nhất định.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất đối với ngân hàng thương mại và quản trị thanh khoản luôn là vấn đề trọng tâm trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bài viết nghiên cứu rủi ro thanh khoản của một số ngân hàng trong và ngoài nước thông qua việc nghiên cứu tình huống rủi ro, phân tích nguyên nhân và cách xử lý của các ngân hàng này, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về quản trị thanh khoản cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Quản trị rủi ro thanh khoản tại một số ngân hàng lớn trên thế thế giới
Continental Illinois National Bank and Trust Company (1984)
Continental Illinois National Bank and Trust Company có trụ sở tại Chicago, là ngân hàng lớn thứ bảy tại Mỹ với tổng tài sản khoảng 40 tỷ USD. Trong quý I/1984, các khoản vay không phù hợp đã đột ngột tăng 400 triệu USD lên tổng số 2,3 tỷ USD. Ngày 10/5/1984, những tin đồn về việc ngân hàng này mất khả năng thanh toán đã gây ra một cuộc chạy đua rút tiền lớn của những người gửi tiền. Người gửi tiền đã rút tới hơn 10 tỷ USD khỏi ngân hàng này chỉ trong vài ngày đầu tháng 5/1984. Continental Illinois National Bank and Trust Company do vậy bị mất thanh khoản và sụp đổ hoàn toàn.
Sau đó, Continental Illinois tiếp tục hoạt động dưới quyền sở hữu chủ yếu của Chính phủ và ngân hàng đã được Bank of America mua vào năm 1994.
Continental Illinois National Bank and Trust Company đã gặp rủi ro thanh khoản dẫn đến sụp đổ do các nguyên nhân sau:
- Nợ xấu từ những khoản vay cho các nhà sản xuất dầu trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ những năm 1980 và 1990 tại Texas của Penn Square Bank.
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- Niềm tin của người gửi tiền với ngân hàng biến mất.
Northern Rock Bank (2007)
Northern Rock là NHTM lớn thứ 5 của Anh về lĩnh vực thế chấp nhà đất và có lịch sử hoạt động hơn 100 năm. Vào năm 2006, Northern Rock mở rộng hoạt động sang lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản với đối tác là Lehman Brothers. Năm 2007, cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn trên thị trường Mỹ đã ảnh hưởng đến cung thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng này đã tìm cách huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng nhưng không được, sau đó đã đề nghị Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) cho vay 3 tỷ Bảng Anh vốn ngắn hạn để chi trả các nghĩa vụ tài chính đến hạn của mình. Những thông tin bí mật về cuộc trao đổi giữa Northern Rock và BOE cũng như các tổ chức tài chính khác bị rò rỉ. Lúc này xuất hiện những thông tin cho rằng Northern Rock cho vay thế chấp tràn lan và đang khan hiếm tiền mặt. Hậu quả là hàng ngàn người gửi tiền tiết kiệm tại Northern Rock đã xếp hàng từ sáng đến tối tại toàn bộ 76 chi nhánh của Ngân hàng này để rút ra bằng được tất cả tiền gửi của mình. Trong 3 ngày 14,15,17/9/2007 khoảng 3 tỷ Bảng Anh đã được rút ra, ngay lập tức trên thị trường chứng khoán giá cổ phiếu của ngân hàng này đã giảm 31,46% và kéo theo đồng Bảng Anh bị sụt giảm nghiêm trọng. Trước tình hình khó khăn, BOE đã phải bơm tiền để Ngân hàng này chi trả cho người gửi tiền. Sự hỗ trợ của BOE đã giúp Northern Rock thoát khỏi tình trạng thiếu tiền mặt nhưng số khách hàng đến rút tiền vẫn tăng mạnh. Trong khi đó, các ngân hàng lớn tại Anh và châu Âu đều từ chối trợ giúp Northern Rock. Những phát biểu mang tính trấn an dư luận của BOE, Bộ Tài chính quốc gia này khẳng định Northern Rock là ngân hàng an toàn, làm ăn có lãi đã không mang lại kết quả như mong đợi và Northern Rock đã bị phá sản.
Northern Rock đã gặp rủi ro thanh khoản dẫn đến bị phá sản do các nguyên nhân sau:
- Ngân hàng đã sử dụng một mô hình kinh doanh với tốc độ phát triển quá nóng trong một thị trường đang thay đổi và đảo chiều. Northern Rock đã thực hiện mô hình kinh doanh là cho vay thế chấp lớn hơn rất nhiều số tiền gửi tiết kiệm mà ngân hàng này thu hút được. Sau đó, Northern Rock thực hiện chứng khoán hóa các khoản cho vay này. Cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn ở Mỹ năm 2007 đã khiến ngân hàng gặp rủi ro tín dụng dẫn đến rủi ro thanh khoản.
- Niềm tin của dân chúng vào ngân hàng biến mất.
- Phản ứng chậm chạp của các cơ quan Chính phủ dẫn đến việc ngân hàng không được trợ giúp kịp thời từ BOE cũng như các thể chế tài chính lớn khi ngân hàng này gặp khó khăn.
Washington Mutual
Washington Mutual (WaMu) là một ngân hàng tiết kiệm và cho vay. Bắt nguồn từ tin đồn Washington Mutual sắp bị vỡ nợ, chỉ trong 10 ngày vào tháng 9/2008 hàng loạt khách hàng đã rút 16,7 tỷ USD tiền gửi tiết kiệm (tương đương 9% tiền gửi của ngân hàng, đẩy ngân hàng này rơi vào tình trạng mất thanh khoản). Khối lượng và tốc độ của dòng tiền gửi rút ra từ Washington Mutual đã khiến ngân hàng này không kịp trở tay trong việc tìm kiếm nguồn vốn mới, cải thiện tính thanh khoản cũng như tìm đối tác góp vốn cổ phần. Chính phủ Mỹ phải đóng Washington Mutual và quyết định bán cho JPMorgan Chase với giá 1,9 tỷ USD. Ngay sau đó, Washington Mutual nộp đơn xin bảo hộ phá sản, đánh dấu vụ sụp đổ của ngân hàng lớn thứ 6 nước Mỹ.
Washington Mutual gặp rủi ro thanh khoản và dẫn đến phá sản do:
- Ngân hàng tập trung cho vay thị trường nhà ở California; Năm 2006, giá trị nhà đất trên cả nước Mỹ bắt đầu giảm. Tính đến tháng 12/2007, giá trị nhà đất trung bình của cả nước đã giảm 9,8%. Tại California, số lượng nhà tồn kho WaMu chưa bán hết là vào khoảng hàng ngàn ngôi nhà, dự tính cần 15 tháng mới bán hết được.
- WaMu đã mở chi nhánh quá nhanh, quá nhiều tại các địa điểm nghèo nàn ở nhiều thị trường.Hậu quả là họ đã tạo ra nhiều khoản vay thế chấp dưới chuẩn đối với người mua không đủ tiêu chuẩn.
- Sự sụp đổ vào tháng 8/2007 của thị trường thứ cấp đối với chứng khoán thế chấp. Giống như nhiều ngân hàng khác, WaMu không thể bán lại các khoản thế chấp này. Trong quý IV/2007, ngân hàng đã xác nhận nợ xấu đang có là 1,6 tỷ USD. Lỗ ròng trong năm là 67 tỷ USD.
- Người gửi tiền mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng Mỹ; Ngày 15/ 9/2008, Lehman Brothers phá sản, cùng với đó, có tin đồn Washington Mutual sắp bị vỡ nợ. Hiện tượng đồng loạt rút tiền đã xảy ra và ngân hàng đã không đảm bảo khả năng thanh khoản.
- Washington Mutual đã không nhận được sự bảo lãnh của Kho bạc Hoa Kỳ lẫn Cục Dự trữ Liên bang.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu - ACB (năm 2003)
Năm 2003, NHTMCP ACB là một trong những NHTMCP tốt nhất tại Việt Nam, kết quả kinh doanh trong 9 tháng đầu năm của ngân hàng hết sức khả quan (lãi hơn 170 tỷ đồng).
Tuy nhiên, đến tháng 10/2003, giới ngân hàng xuất hiện một tin đồn là ông Phạm Văn Thiệt, Tổng Giám đốc ACB đã bỏ trốn. Trong những ngày đầu, thông tin này lan truyền giới hạn, nhưng vào đầu tuần sau tin đồn đã bùng phát rộng khắp cả nước; tiếp đó, xuất hiện tin đồn ông Phạm Văn Thiệt bị bắt. Người dân hoảng hốt đổ xô tới rút tiền tại các phòng giao dịch của ACB, gây ra ùn tắc giao thông, càng khiến cho tin đồn lan mạnh. Đỉnh điểm là ngày 14/10/2003, khi người dân xếp hàng tới tận nửa đêm để đòi lại các khoản tiền mình đã gửi tại ngân hàng. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn 900 tỷ đồng (tương đương 57,7 triệu USD) đã rút ra khỏi ACB. ACB đứng trước khả năng không còn đủ tiền mặt để chi trả cho khách hàng trong khi khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết và có hiệu quả thanh khoản, nếu không có sự can thiệp kịp thời và mạnh mẽ của Ngân hàng Nhà nước, nguy cơ về sự sụp đổ của ACB là có thể xảy ra. Tuy nhiên, sau một tuần, ACB khôi phục lại, mọi hoạt động bình thường, thậm chí khách hàng đến gửi tiền có xu hướng đông hơn so với trước lúc xảy ra sự cố.
Sự cố tại ACB năm 2003 xuất phát từ niềm tin của khách hàng vào ACB nói riêng và vào hệ thống NHTM Việt Nam chưa đủ lớn, do đó, khi có tin đồn thất thiệt, khách hàng đã rút tiền hàng loạt. Đứng trước tình cảnh trên, ACB đã xử lý rủi ro thanh khoản như sau:
- Ngân hàng đã có những ứng phó cụ thể, có hệ thống, quản lý mọi hoạt động trong thời gian xảy ra sự cố. Cụ thể:
+ Tiếp cận với công chúng để nắm bắt được nội dung tin đồn.
+ Dựng trung tâm thông tin và thành lập nhóm xử lý sự cố, chỉ định một phát ngôn viên chính thức.
+ Dùng nhiều phương pháp để trấn an công chúng: Giám đốc Phạm Văn Thiệt luôn luôn ngồi trong văn phòng ở hội sở chính, sử dụng điện thoại cố định chứ không phải điện thoại di động, chủ động xuất hiện ở một loạt các sự kiện để đưa hình ảnh cá nhân trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cung cấp thông tin nhanh chóng và đều đặn cho các phương tiện truyền thông và công chúng về hoạt động của ngân hàng; Huy động lực lượng nhân viên làm việc tới quá nửa đêm để phục vụ nhu cầu rút tiền của khách hàng.
- Ngân hàng đã điều chỉnh kế hoạch (chi trả lãi tiền gửi, khôi phục đầy đủ quyền lợi cho khách hàng) cho phù hợp với tình hình.
- Sử dụng nguồn lực bên trong và bên ngoài để ngăn chặn và đối phó với sự cố thanh khoản.
ACB là ngân hàng hoạt động có hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cam kết hỗ trợ đầy đủ mọi yêu cầu về VND, ngoại tệ và vàng cho ACB để chi trả cho khách hàng.
Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Qua việc nghiên cứu một số tình huống rủi ro thanh khoản của các ngân hàng trong và ngoài nước, tác giả rút ra một số bài học cho các NHTM Việt Nam trong việc quản trị thanh khoản như sau:
Thứ nhất, việc quản trị thanh khoản trong ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải thiết lập một hệ thống quản trị thanh khoản đủ mạnh, trong đó phải đảm bảo tính nhất quán trong chính sách quản trị thanh khoản và lập ra một kế hoạch phòng thanh khoản.
Thứ hai, bản chất và quy mô của rủi ro thanh khoản có thể thay đổi một cách đáng kể do kết quả kinh doanh của ngân hàng và những thay đổi trong môi trường bao quanh ngân hàng. Do đó, ngân hàng cần phải nâng cao công tác dự báo kinh tế vĩ mô nhằm chuẩn bị tinh thần cho những biến động thị trường tài chính tiền tệ, những biến động xảy ra một cách bất ngờ có thể ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Thứ ba, ngân hàng phải có kế hoạch hành động trong trường hợp khẩn cấp: môi trường tài trợ của một ngân hàng (những người gửi tiền) nhạy cảm với những biến động lớn và ảnh hưởng đến tính lành mạnh của ngân hàng. Ngân hàng cần nỗ lực phát hiện sớm bất cứ khó khăn nào có thể gặp phải, đánh giá được mức độ nghiêm trọng của tình hình và quyết đoán trong xử lý.
Thứ tư, một chiến lược kinh doanh thận trọng luôn có tác dụng giảm thiểu tác động của các điều kiện bất lợi của thị trường và tăng cường khả năng chống đỡ. Trong hoàn cảnh Việt Nam, khi các ngân hàng chưa có hệ thống quản trị thanh khoản tốt thì chiến lược kinh doanh thận trọng càng có ý nghĩa hơn nhiều.
Thứ năm, một ngân hàng dù mạnh thế nào nhưng nếu mất niềm tin từ những người gửi tiền thì đều có thể gặp rủi ro thanh khoản, dẫn đến sụp đổ. Do đó, ngân hàng cần xây dựng lòng tin từ khách hàng và nhà đầu từ bằng cách:
- Công bố những thông tin tài chính của ngân hàng một cách rõ ràng, minh bạch.
- Tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng.
Thứ sáu, NHTM cần nhận thức rõ rủi ro nào cũng có thể ảnh hưởng đến an toàn thanh khoản của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với tốc độ tăng trưởng tín dụng như mấy năm trở lại đây, các NHTM lại càng phải lưu tâm đến công tác quản trị thanh khoản.
Tài liệu tham khảo:
1. Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Bảo Huyền (2016), “Rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”;
2. Nguyễn Trọng Tài (2012) “Khủng hoảng và quản lý rủi ro thanh khoản ở ngân hàng thương mại”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 406 – tháng 3/2012;
3. Nguyễn Thị Mỹ Linh, Quản trị thanh khoản tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
4. Các website: Tapchitaichinh.vn; sbv.gov.vn; vnexpress.net; vneconomy.vn; nhandan.com.vn.