Sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán trong quản lý tài chính - ngân sách quận, huyện TP. Hà Nội
Sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán trong quản lý tài chính ngân sách cấp quận, huyện là yêu cầu quan trọng đối với cấp chính quyền. Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp về sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán nhằm quản lý hiệu quả tài chính ngân sách quận, huyện trên địa bàn TP. Hà Nội.
Bối cảnh tác động đến công tác kế toán, kiểm toán ngân sách quận, huyện
Hà Nội là thủ đô của cả nước, ngoài thực hiện các bộ luật liên quan đến ngân sách, đầu tư công, xây dựng... Hà Nội còn được điều chỉnh bởi Luật Thủ đô.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành chính TP. Hà Nội đã đạt được nhiều thành tích toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế - xã hội ổn định, an ninh, chính trị được giữ vững, khoảng cách giữa các quận và huyện sau hợp nhất dần được rút ngắn, thu ngân sách nhà nước (NSNN) ngày càng tăng.
Thành phố đã thực hiện tốt công tác quản lý tốt và điều hành chặt chẽ, linh hoạt nguồn NSNN góp phần không nhỏ đến những thành công trên.
Tuy nhiên, để duy trì và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch tài chính 3 năm và những giai đoạn tiếp theo một cách bền vững thì công tác quản lý tài chính - ngân sách cần phải đi trước và có những kế hoạch, giải pháp cụ thể, trong đó, sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán là phương án tiết kiệm và hiệu quả nhất.
Có thể dự báo những yếu tố tác động đến kế toán, kiểm toán ngân sách quận, huyện trên địa bàn TP. Hà Nội trong giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 gồm:
Thứ nhất, tác động của việc đẩy mạnh phân cấp quản lý NSNN cho chính quyền địa phương các cấp và cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
Ngày 24/11/2017, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 56/2017/QH14 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Với việc cải cách này, số lượng cơ quan thực hiện kế toán và số đầu mối phải kiểm toán sẽ giảm đi và tinh gọn.
Thứ hai, thực hiện Luật NSNN 2015, phương thức quản lý NSNN được chuyển từ quản lý theo đầu vào sang quản lý theo kết quả thực hiện nhiệm vụ và lập NS theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn sẽ có tác động lớn tới việc sử dụng công cụ kế toán NSNN và Kiểm toán Nhà nước (KTNN) về NSNN.
Thứ ba, việc đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập sẽ ảnh hưởng đến cách thức tổ chức và sử dụng kế toán, kiểm toán trong quản lý NSNN.
Thứ tư, hệ thống TABMIS được triển khai trên phạm vi toàn quốc từ cuối năm 2012 đã làm thay đổi cơ bản các hoạt động nghiệp vụ NSNN ở cấp Chính phủ Trung ương và các cấp chính quyền địa phương.
Thứ năm, ngày 19/05/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2017/NĐ-CP quy định một số cơ chế, chính sách tài chính ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội.
Cơ chế, chính sách tài chính ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội sẽ đặt ra yêu cầu kế toán ngân sách (trong đó có ngân sách quận, huyện) phải phản ánh và kiểm tra thu, chi ngân sách tuân thủ theo cơ chế, chính sách đó mà không phải theo cơ chế, chính sách chung cho tất cả các địa phương. Tình hình cũng xảy ra tương tự đối với kiểm toán ngân sách quận huyện.
Thứ sáu, việc sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán trong quản lý tài chính ngân sách quận huyện trên địa bàn Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả tích cực; tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, đòi hỏi phải đổi mới hơn nữa công tác kế toán – kiểm toán thì mới có thể đáp ứng yêu cầu quản lý ngân sách quận huyện trong thời kỳ mới.
Từ thực trạng đó, định hướng sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán trong quản lý tài chính - ngân sách quận, huyện trên địa bàn TP. Hà Nội như sau:
Đối với kế toán:
Thứ nhất, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý NSNN theo kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch chi tiêu trung hạn.
Thứ hai, từng bước phù hợp và tương thích với các chuẩn mực kế toán công quốc tế.
Thứ ba, tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSNN và kế toán NSNN, phù hợp với xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ tư, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ kế toán vững về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao.
Đối với kiểm toán:
Thứ nhất, nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN để KTNN là công cụ trọng yếu kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng NSNN, trong đó có ngân sách quận huyện; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của HĐND các quận, huyện trong thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng về ngân sách quận, huyện; phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn quản lý ngân sách.
Thứ hai, sử dụng công cụ KTNN đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật và đảm bảo tính độc lập của hoạt động KTNN, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước thuộc phạm vi quản lý của chính quyền các quận, huyện.
Thứ ba, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ KTNN vững về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao.
Tăng cường sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán trong quản lý tài chính - ngân sách tại TP. Hà Nội
Nhằm quản lý hiệu quả tài chính, ngân sách quận, huyện, cần chú ý một số giải pháp về sử dụng công cụ kế toán, kiểm toán, bao gồm:
Về sử dụng công cụ kế toán
Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác kế toán: Thành phố và các quận huyện cần xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế; quan tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị;
Đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm năng xã hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; Khuyến khích đội ngũ làm công tác kế toán chủ động học tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Thứ hai, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về kế toán, kiểm toán: Cần nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan dân cử ở địa phương đối với việc quản lý, giám sát về kế toán, thực hiện các kiến nghị của kiểm toán nhà nước. Bên cạnh đó, cần củng cố về tổ chức bộ máy quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán theo hướng nâng cao vị thế và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kế toán, kiểm toán; Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về kế toán.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trong nước: Cần từng bước mở rộng và xem xét để chuyển giao các công việc thuộc chức năng quản lý của Nhà nước cho các tổ chức nghề nghiệp (Hội Kế toán TP. Hà Nội và các chi hội kế toán quận, huyện); Phấn đấu đến năm 2020, các tổ chức nghề nghiệp của Việt Nam thực sự trở thành tổ chức nghề nghiệp tự quản, có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động như các tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế khác nhằm tăng cường phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động, vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, kế toán, kiểm toán.
Thứ tư, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng công nghệ lõi kỹ thuật số của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao chất lượng quản lý tài chính ngân sách (trong đó có kế toán ngân sách nhà nước quận, huyện) lên ngang tầm các nước phát triển trong khu vực.
Trong quá trình triển khai thực hiện, cần xây dựng kế hoạch thí điểm đối với những quận, huyện đã làm tốt công tác kế toán, từ đó rút kinh nghiệm để thực hiện trên toàn Thành phố.
Về sử dụng công cụ kiểm toán
Thứ nhất, nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức hoạt động kiểm toán ngân sách quận, huyện: Xác định rõ đối tượng kiểm toán, khách thể kiểm toán và các bên liên quan đến kiểm toán ngân sách quận, huyện.
Xác định rõ đối tượng kiểm toán, khách thể kiểm toán và các bên liên quan đến kiểm toán ngân sách quận, huyện là để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của KTNN trong việc đánh giá, xác nhận báo cáo quyết toán ngân sách quận, huyện, đánh giá tính tuân thủ trong việc chấp hành chính sách, chế độ của Nhà nước, đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực trong việc quản lý, sử dụng, điều hành ngân sách quận huyện.
Bên cạnh đó, cần vận dụng sáng tạo quy trình kiểm toán ngân sách địa phương vào kiểm toán ngân sách quận, huyện. Khi kiểm toán ngân sách quận, huyện phải vận dụng Quy trình kiểm toán ngân sách địa phương (NSĐP), được ban hành theo Quyết định số 06/2017/QĐ-KTNN, ngày 12/06/2017.
Trong bước “Chuẩn bị kiểm toán ngân sách quận, huyện cần lưu ý thêm các điểm sau: (i) Dành thời gian thích đáng cho khảo sát và thu thập thông tin; (ii) Xây dựng phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán ngân sách quận, huyện.
Trong bước “Thực hiện kiểm toán ngân sách quận, huyện” cần lưu ý thêm các điểm sau: (i) Hoàn thiện công tác lập và triển khai kế hoạch chi tiết; (ii) Chú trọng kiểm toán ngân sách quận, huyện tại các cơ quan quản lý tổng hợp để định hướng cho việc kiểm toán các đơn vị dự toán và chia nhỏ theo các chuyên đề kiểm toán ngân sách quận, huyện; (iii) Nâng cao chất lượng nhật ký kiểm toán viên.
Trong bước “Lập và gửi báo cáo kiểm toán” cần lưu ý thêm các điểm sau: (i) Hoàn thiện về kết cấu, nội dung báo cáo kiểm toán; (ii) Cải cách các thủ tục xét duyệt báo cáo và phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thẩm định báo cáo kiểm toán; (iii) Hoàn thiện việc công khai kết quả kiểm toán ngân sách quận, huyện theo hướng công khai toàn bộ đến từng đơn vị được kiểm toán chi tiết và đảm bảo tính kịp thời của thông tin.
Trong bước “Kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán” cần lưu ý:
(i) Xây dựng tiêu chí lựa chọn đối tượng kiểm tra tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán;
(ii) Đổi mới cách thức kiểm tra, không chỉ kiểm tra sau khi kết thúc cuộc kiểm toán mà còn kiểm tra ngay trong quá trình thực hiện kiểm toán, nhất là việc điều chỉnh số liệu kiểm toán nhằm bảo đảm hiệu lực của kiến nghị kiểm toán và là cơ sở đáng tin cậy cho HĐND phê chuẩn quyết toán ngân sách quận, huyện;
(iii) KTNN cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý của đơn vị được kiểm toán, với HĐND trong việc theo dõi thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán, cung cấp thông tin về vấn đề không thực hiện kiến nghị kiểm toán. Đối với các khoản thu nộp NSNN, KTNN phối hợp với các cơ quan Tài chính, KBNN, Thuế, Hải quan để theo dõi việc kiểm tra kiến nghị;
(iv) Tổ chức công khai các đơn vị không thực hiện nghiêm túc kiến nghị kiểm toán trên các phương tiện thông tin đại chúng;
(v) Tổ chức rút kinh nghiệm sau khi có kết quả kiểm tra việc thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán.
Thứ hai, hoàn thiện tổ chức kiểm soát chất lượng các cuộc kiểm toán ngân sách quận, huyện: Hoạt động thẩm tra, thanh tra, kiểm soát kiểm toán của KTNN, do các Vụ tham mưu thực hiện là: Vụ Tổng hợp, Vụ Pháp chế và Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng. Việc phân định lại nhiệm vụ của các Vụ này được hoàn thiện theo hướng:
(i) Vụ Tổng hợp chỉ thực hiện việc thẩm định đối với kế hoạch (chung) kiểm toán, báo cáo (tổng hợp) kiểm toán NSĐP để giúp Tổng KTNN phê chuẩn kế hoạch và báo cáo. Việc phê duyệt kế hoạch và báo cáo kiểm toán đối với ngân sách quận, huyện phân cấp cho Kiểm toán trưởng KTNN khu vực thực hiện;
(ii) Vụ Pháp chế chỉ thực hiện thanh tra vụ việc lên quan đến những vấn đề có khiếu kiện hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật tại các cuộc kiểm toán theo đúng chức năng thanh tra;
(iii) Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng thực hiện toàn bộ hoạt động kiểm soát chất lượng của tất cả các Đoàn kiểm toán trong đó có các Đoàn kiểm toán, ngân sách quận huyện, đối với mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán, theo các phương thức kiểm soát thường xuyên và đột xuất theo Quyết định của Tổng KTNN.
Bộ máy kiểm soát chất lượng kiểm toán cần được tăng cường các kiểm toán viên có chuyên môn sâu về tài chính, ngân sách, đặc biệt là ngân sách quận huyện, tăng cường những kiểm toán viên có kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng khái quát tổng hợp, bảo đảm cơ cấu hợp lý các cán bộ có chuyên môn về lĩnh vực kiểm toán.
Bên cạnh đó, cần thực hiện phân cấp mạnh về kiểm soát chất lượng cho KTNN khu vực, quy định rõ trách nhiệm kiểm soát của Kiểm toán trưởng; nâng cao trách nhiệm kiểm soát của Trưởng đoàn kiểm toán, Tổ trưởng Tổ kiểm toán và kiểm toán viên đối với sai sót về kết quả kiểm toán, sai sót đối với việc vi phạm quy định trong hoạt động kiểm toán.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, quy mô, đa dạng hóa hình thức và phương pháp kiểm soát; tăng cường kiểm soát trực tiếp, bảo đảm kiểm soát đầy đủ hoạt động kiểm toán; giám sát 100% các đoàn kiểm toán thông qua việc ghi chép nhật ký điện tử; tăng cường kiểm soát đột xuất đối với các đoàn, các tổ kiểm toán có dấu hiện vi phạm và kết quả thấp.
Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế giám sát từ phía đơn vị được kiểm toán: Phối hợp với huyện ủy, HĐND, UBND trong việc giám sát, quản lý hoạt động kiểm toán; công khai, minh bạch hoạt động kiểm soát chất lượng để địa phương biết và tham gia phối hợp trong việc giám sát các đoàn kiểm toán; xây dựng đường dây “nóng” để đơn vị được kiểm toán có thể thông tin phản ánh kịp thời các hành vi nhũng nhiễu, vi phạm quy chế kiểm toán của các kiểm toán viên; Hoàn thiện các quy định về kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Việc hoàn thiện theo hướng: Ban hành Quy chế KSNB của Đoàn kiểm toán; phân cấp mạnh về quyền và trách nhiệm quản lý hoạt động kiểm toán ngân sách quận huyện cho Kiểm toán trưởng của KTNN khu vực...
Thứ ba, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa KTNN với chính quyền quận, huyện: Mối quan hệ giữa KTNN và chính quyền quận, huyện là quan hệ giữa chủ thể kiểm toán và đơn vị được kiểm toán trong hoạt động kiểm toán ngân sách quận, huyện. Các quan hệ này cần được hoàn thiện để phục vụ tốt hơn công tác kiểm toán ngân sách quận, huyện và nâng cao chất lượng quản lý ngân sách quận huyện theo hướng:
(i) KTNN khu vực cung cấp kết quả kiểm toán ngân sách quận, huyện để HĐND xem xét, thẩm tra dự toán, quyết toán ngân sách quận, huyện. Mặt khác, HĐND có thể đề nghị KTNN thực hiện những nội dung, chương trình kiểm toán phục vụ cho giám sát về kinh tế, tài chính của HĐND cấp mình;
(ii) Tăng cường mối quan hệ giữa KTNN khu vực với UBND quận, huyện trong kiểm toán ngân sách quận, huyện.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy liên quan đến kiểm toán ngân sách quận, huyện
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức bộ máy KTNN khu vực: KTNN khu vực I thực hiện kiểm toán NSĐP của Hà Nội, trong đó có ngân sách quận huyện.
Để phát huy ngày càng đầy đủ vai trò của KTNN đối với quản lý kinh tế - tài chính của địa phương thì trước tiên phải tăng cường năng lực kiểm toán của KTNN khu vực với các giải pháp cụ thể sau:
(i) KTNN rà soát, đánh giá, tổ chức phân công phạm vi quản lý của các tổ chức KTNN khu vực sao cho phù hợp, đảm bảo hài hòa về khối lượng công tác giữa các tổ chức này; đồng thời, đảm bảo bộ máy tinh gọn, ổn định và hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính;
(ii) Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự của KTNN khu vực theo hướng chuyên môn hóa kiểm toán NSĐP theo từng phòng kiểm toán; tăng cường và phát huy vai trò của Phòng Tổng hợp của các KTNN khu vực, đặc biệt là nâng cao năng lực tham mưu giúp Kiểm toán trưởng quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán trực tiếp đối với 100% các cuộc kiểm toán NSĐP; tăng cường năng lực tổng hợp kế hoạch và báo cáo kiểm toán khi thực hiện mô hình tổ chức nhiều đoàn kiểm toán để kiểm toán NSĐP.
Thứ hai, hoàn thiện tổ chức đoàn kiểm toán ngân sách quận, huyện: Đa dạng hóa hình thức tổ chức đoàn kiểm toán ngân sách quận huyện; Hoàn thiện việc bố trí nhân sự đoàn, tổ kiểm toán ngân sách quận, huyện.
Tài liệu tham khảo:
1. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Hội thảo khoa học tháng 8/2013;
2. Quốc hội, 2015- Luật NSNN số 83/2015/QH 13 ngày 25/6/2015;
3. Giáo trình kiểm toán - Học viện Tài chính, NXB Tài chính 2010;
4. Phạm Thị Tương (2015): Kiểm toán nhà nước đối với quản lý ngân sách: Những vấn đề đặt ra - Tạp chí Tài chính;
5. PGS., TS. Mai Thị Hoàng Minh: Vai trò của hoạt động kiểm toán với quản lý ngân sách nhà nước (https://sav.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=1711&1=Nghiencuutraodoi).