Vấn đề tiêu chuẩn về lao động trong Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2019

Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động là nội dung luôn được đề cập đến trong các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là bộ phận trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nên trước hết họ phải là người được hưởng lợi, được chia sẻ thành quả của quá trình này.

Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động luôn được đề cập trong các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới.
Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động luôn được đề cập trong các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới.

Đặt vấn đề

Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) yêu cầu các nước tham gia phải thông qua và duy trìcác quyền đã được ghi nhận trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động trong pháp luật, thể chế và thông lệ của quốc gia. Các quyền được quy định trong 8 công ước cơ bản của ILO với nền tảng là: Tự do liên kết và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể (được quy định trong Công ước ILO số 87 và 98); Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước ILO số 29 và 105); Xoá bỏ lao động trẻ em  (Công ước ILO số 138 và 182); xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước ILO số 100 và 111).

Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là FTA thế hệ mới. Hiệp định CPTPP gồm những tiêu chuẩn cao, toàn diện và cân bằng, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trìviệc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, sức cạnh tranh; nâng cao mức sống, giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động và bảo vệ môi trường.

Các thành viên CPTPP phải tự chứng minh rằng họ tuân theo những tiêu chuẩn của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.

Các thành viên tham gia Hiệp định này cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp và những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất. Trong chương lao động của CPTPP, quyền công đoàn đã được xác định là một quyền dân sự - kinh tế, chứ không phải là một quyền chính trị.

Quyền công đoàn (hay công đoàn độc lập) là một vấn đề tương đối phức tạp đối với các quốc gia có cơ quan Tổng Liên đoàn lao động duy nhất (Việt Nam và Malaysia), các nước thành viên không tuân theo tiêu chuẩn quy định của CPTPP sẽ bị phạt về thương mại.

Các quyền được quy định trong 8 công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với nền tảng là: Tự do liên kết và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể (được quy định trong Công ước ILO số 87 và 98); Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước ILO số 29 và 105); Xoá bỏ lao động trẻ em (Công ước ILO số 138 và 182); xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước ILO số 100 và 111).

Hiệp định CPTPP đề cập đến các tiêu chuẩn lao động đã được ghi nhận trong các Công ước ILO và các văn kiện quốc tế khác. Ví dụ như: Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948, Công ước về quyền trẻ em năm 1989 hay Tuyên ngôn của hội nghị cấp cao Copenhagen năm 1995 về phát triển xã hội. Cụ thể, đó là tập hợp 4 quyền và nghĩa vụ cơ bản tại nơi làm việc đã được công nhận trên toàn thế giới: i) Loại bỏ mọi hình thức lao động cưỡng ép hoặc bắt buộc; ii) Đưa vào hiệu lực việc thủ tiêu chế độ sử dụng lao động trẻ em và đặt ưu tiên hàng đầu là loại trừ những hình thức lao động nguy hiểm nhất; iii) Tạo cơ hội công bằng và chống phân biệt đối xử về việc làm; iv) Tự do liên kết và quyền được thương thuyết tập thể.

Bốn nguyên tắc trên được coi như những tiêu chuẩn lao động “cốt lõi” và nhận được sự đồng thuận trên toàn thế giới. Các tiêu chuẩn này có thể được áp dụng đối với mọi quốc gia không phân biệt trình độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn này không thiết lập một mức cụ thể cho điều kiện làm việc, tiền lương, sức khỏe và tiêu chuẩn an toàn để áp dụng chung, cũng không nhằm mục đích thay đổi lợi thế cạnh tranh của bất cứ quốc gia nào.

Thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế

Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động là nội dung luôn được đề cập đến trong các FTA. Cũng như các FTA khác, Hiệp định CPTPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO mà Việt Nam là một thành viên về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động mà tất cả các nước thành viên CPTPP đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực thi với tư cách thành viên ILO.

Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên quy định trong luật và áp dụng trên thực tế các biện pháp để bảo đảm thực thi đầy đủ Tuyên bố của ILO năm 1998 về các nguyên tắc cơ bản và quyền tại nơi làm việc. Tuyên bố này bao gồm các quyền cơ bản của người lao động, đó là các quyền tự do liên kết, quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ lao động trẻ em, loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp; không phân biệt đối xử người lao động.

Với tư cách là thành viên, Việt Nam đã phê chuẩn 22/189 Công ước của ILO. Tám tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản có tính bắt buộc chung cho tất cả các quốc gia thành viên ILO, cụ thể là các tiêu chuẩn cơ bản là tiêu chuẩn tối thiểu và có thể áp dụng cho mọi quốc gia, không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của mỗi quốc gia, tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản bao gồm:

Công ước số 87 năm 1948 về quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được liên kết; Công ước số 98 năm 1949 về quyền được tổ chức và thương lượng tập thể; Công ước số 29 năm 1930 về lao động cưỡng bức và hoặc bắt buộc; công ước số 105 năm 1957 về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; Công ước số 138 năm 1973 về tuổi lao động tối thiểu; Công ước số 182 năm 1999 về xóa bỏ những hình thức sử dụng lao động trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 100 năm 1951 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau; công ước số 111 năm 1958 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp.

CPTPP có cơ chế để ràng buộc các nước thành viên, trong đó có Việt Nam thực thi các quyền của người lao động, ví dụ như để được hưởng chính sách thuế và các lợi ích khác của CPTPP mà Việt Nam đã cam kết, Việt Nam sẽ điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn... cho tương thích.

Với tinh thần bảo đảm điều kiện lao động tốt nhất cho người lao động, Việt Nam đã chủ động phê chuẩn 6 công ước cơ bản của ILO, bao gồm các công ước số 29, 98, 100, 111, 138 và 182. Với 2 công ước cơ bản còn lại là công ước số 87 và 105, Việt Nam đã và đang nghiên cứu và chuẩn bị trình cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn Công ước 105 vào năm 2020 và Công ước 87 vào năm 2023.

Ngày 14/6/2019, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 98, bao gồm các nội dung cơ bản: Bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử, chống công đoàn của người sử dụng lao động; Bảo vệ tổ chức của người lao động không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động; Những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện, thiện chí.

Cụ thể, theo Điều 1 của Công ước này, người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại việc làm của họ. Hiện nay, vấn đề đại diện, bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích của người lao động, không bị người sử dụng lao động can thiệp và phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động cũng được đề cập và quy định rõ ràng. Đồng thời phải đề cao nghĩa vụ thương lượng, thiện chí của người sử dụng lao động khi tiến hành thương lượng tập thể với tổ chức của người lao động về tiền lương và các điều kiện lao động khác cho người lao động.

Về quyền tự do hiệp hội, Công ước số 87 đã ghi nhận nguyên tắc rằng người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo Điều lệ của chính tổ chức đó.

Tại Việt Nam, điều này có nghĩa tổ chức của người lao động tại cơ sở có thể lựa chọn gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động. Tổ chức đó sẽ chỉ được hoạt động sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một quy trình minh bạch và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chức của người lao động, sau khi hoàn tất thủ tục nói trên, sẽ có một số quyền tự chủ nhất định phù hợp với quy định của ILO và pháp luật Việt Nam.

Mục đích hoạt động của tổ chức đại diện người lao động phải là để đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích của người lao động tại doanh nghiệp mà họ làm việc thông qua các hình thức được quy định trong pháp luật bao gồm đối thoại, thương lượng tập thể, đình công và các hành động tập thể khác trong quan hệ lao động. Các tổ chức của người lao động không được phép tiến hành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn chỉ mục đích phù hợp với quy định của ILO và đã đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Công ước số 105 năm 1957 về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc đã ghi nhận rằng mọi nước thành viên của ILO phê chuẩn Công ước này cam kết bãi bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức nào của loại lao động đó (Điều 1). Công ước số 105 là một trong những công ước cơ bản của ILO, là văn bản pháp luật quốc tế rất quan trọng về việc xóa bỏ lao động cưỡng bức. Việc phê chuẩn Công ước 105 có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế; phù hợp với xu thế tiến bộ chung của thế giới, thể hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến lao động của Việt Nam và cộng đồng quốc tế.

Như vậy, là thành viên và phê chuẩn Hiệp định CPTPP, bên cạnh mặt thuận lợi và lợi ích mang lại, có những thách thức đặt ra đối với Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nên trước hết họ phải là người được hưởng lợi, được chia sẻ thành quả của quá trình này. Điều này đã được cụ thể trong chương riêng của Hiệp định CPTPP, đưa ra những cam kết về lao động với việc áp dụng các tiêu chuẩn lao động của ILO mà các nước thành viên phải tuân thủ. Đây cũng là một thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam trong quá trình đổi mới tổ chức hoạt động phù hợp với phát triển của kinh tế - xã hội đất nước.

Hiệp định CPTPP có cơ chế để ràng buộc các nước thành viên, trong đó có Việt Nam trong việc thực thi các quyền của người lao động. Ví dụ như, để được hưởng chính sách thuế và các lợi ích khác của Hiệp định CPTPP mà Việt Nam đã cam kết, Việt Nam sẽ điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn... cho tương thích và quốc hội Việt Nam sẽ thông qua các luật đó. Đây là các điều khoản mới mà các FTA thế hệ trước đó chưa đề cập, tức là không đưa các điều khoản về quyền của người lao động vào trong quy trình giải quyết khiếu nại, nhưng các hiệp định FTA như Hiệp định CPTPP thìquy định này đã được văn bản hóa.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữa vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;
2. Chính phủ (2018), Nghị định số 157/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động;
3. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 về việc phê duyệt kế hoạch gia nhập các công ước của Liên hợp quốc và của Tổ chức Lao động quốc tế trong lĩnh vực lao động - xã hội giai đoạn 2016-2020.
4. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương;
5. Tổ chức Lao động quốc tế (1930), Công ước về lao động cưỡng bức, 1930 (số 29);
6. Tổ chức Lao động quốc tế (1973), Công ước về tuổi lao động tối thiểu,1973 (số 138);
7. Tổ chức Lao động quốc tế (1949), Công ước về quyền tổ chức và thương lượng tập thể, 1949 (Công ước số 98).