Những cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong môi trường CPTPP
Chính thức có hiệu lực từ ngày 14/01/2019, Hiệp định Đối tác toàn diện, tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được đánh giá là mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với kinh tế Việt Nam.
Để chủ động trong môi trường hội nhập quốc tế, đặc biệt là khi thực thi CPTPP, bên cạnh việc nắm chắc các quy định và thực thi đúng cam kết quốc tế, Việt Nam cần nắm rõ và tận dụng tốt các cơ hội cũng như lường trước được những rủi ro đặt ra. Bài viết phân tích tổng quan những cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình thực thi CPTPP.
Cơ hội phát triển
CPTPP là hiệp định mang tính toàn diện, bao trùm các nguyên tắc về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều chủ đề khác. Hiệp định này sẽ tạo áp lực lên cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp (DN) phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, thực hiện các cam kết của CPTPP, GDP của Việt Nam dự báo tăng thêm 1,32%; xuất khẩu tăng thêm 4%, nhập khẩu tăng 3,8%. Một số ngành như: Dệt may, da giày, các ngành thâm dụng lao động khác của Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi và tăng năng suất xuất khẩu; Ngành Thủy sản cũng sẽ đón nhiều cơ hội hơn khi các nước tham gia CPTPP hàng năm nhập khẩu gần 2 tỷ USD.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với những lợi thế trên, việc tham gia CPTPP khiến thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng và tận dụng được các lợi thế với các thị trường mà từ trước đến nay Việt Nam chưa từng thâm nhập như: Canada, Mexico, Peru. Kết quả một khảo sát toàn diện về DN trên toàn cầu của Ngân hàng HSBC cho thấy, khoảng 63% các DN tại Việt Nam tin tưởng rằng, CPTPP sẽ có tầm ảnh hưởng tích cực lên hoạt động kinh doanh của họ. Trong số 1.150 DN có trụ sở tại các nước thành viên CPTPP tham gia khảo sát, gần 46% kỳ vọng vào những lợi ích tích cực từ hiệp định này.
Thứ hai, cải cách thể chế, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi. CPTPP có những điều kiện tiêu chuẩn cao về mặt thể chế, chất lượng quản lý nhà nước cũng như khung khổ pháp luật. Việc tham gia hiệp định này sẽ góp phần cải cách môi trường thể chế, hướng tới các “luật chơi” quốc tế. Đây là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, mang lại động lực tích cực để phát triển đất nước. Cải cách thể chế sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, huy động và sử dụng hiệu quả hơn những nguồn lực sẵn có trong nước và tận dụng tốt hơn các nguồn lực bên ngoài...
Mặt khác, CPTPP còn là động lực giúp đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế; đổi mới và sắp xếp lại DN nhà nước; đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; tạo sự liên thông giữa các bộ, ngành để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy kết nối và hợp tác giữa các DN trong nước với các DN nước ngoài.
Thứ ba, mở rộng cơ hội cho DN Việt Nam. Khi tham gia CPTPP, các nước thành viên xóa gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình, tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và mang đến lợi ích cho người tiêu dùng của các nước thành viên.
Theo nhận định của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, CPTPP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu cũng như thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn. Khi dòng thuế suất bằng 0%, CPTPP sẽ giúp ngành Dệt may Việt Nam mở rộng thị phần tại một số nước đang có thuế suất cao như: Canada, Newzealand, Australia… Tương tự như lĩnh vực dệt may, CPTPP cũng là cơ hội để các DN xuất khẩu da giày tăng tỷ trọng, thêm nhiều cơ hội mở rộng sang các thị trường tiềm năng như: Mexico, Canada, Peru… Riêng Nhật Bản - Một trong những thị trường chủ lực của ngành xuất khẩu da giày, túi xách Việt Nam với mức tăng trưởng trung bình từ 20 - 35%/năm, nếu DN biết tận dụng các điều khoản từ CPTPP, mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn hiện tại.
Hơn nữa, Hiệp định CPTPP cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho cộng đồng DN Việt Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu, các DN sẽ có thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Việc giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm vào Việt Nam sẽ giúp cho DN có thêm đối tác mới, đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với các cơ hội trên, việc thực thi các quy định của CPTPP cũng sẽ giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo ra cơ hội cho các DN Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại…
Thách thức đặt ra trong quá trình thực thi CPTPP
Không chỉ mang lại những cơ hội cho Việt Nam, trong quá trình thực thi các cam kết của Hiệp định CPTPP cũng đặt ra không ít thách thức đối với nền kinh tế, đòi hỏi cần phải thay đổi để thích ứng với bối cảnh mới. Cụ thể:
Một là, thách thức đối với nền kinh tế. Xét theo mặt hàng, một số chủng loại nông sản mà một số nước CPTPP có thế mạnh như: Thịt lợn, thịt gà là những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Tuy nhiên, do Hoa Kỳ đã rút khỏi hiệp định này nên sức ép cạnh tranh giảm đi đáng kể. Hơn nữa, với hai mặt hàng này, Việt Nam đã bảo lưu được lộ trình thực hiện tương đối dài (với một số chủng loại thịt gà là trên 10 năm). Đây là lộ trình dài hơn nhiều so với cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam trong ASEAN vốn cũng rất cạnh tranh trong việc sản xuất một số loại thịt.
Hiện nay có 11 nước tham gia CPTPP gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru và Singapore. Các nước tham gia CPTPP có tổng GDP là 10,2 nghìn tỷ USD, chiếm hơn 13% trong tổng GDP toàn cầu. Tổng dân số là 495 triệu người, chiếm 6,8% dân số thế giới.
Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp mà một số nước CPTPP có thế mạnh đã gây sức ép cạnh tranh đối với những sản phẩm sản xuất ở Việt Nam. Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh giữa sản phẩm “ngoại” với sản phẩm “nội” sẽ không lớn, vì hiện tại và trong 10 - 15 năm nữa sản phẩm của Việt Nam vẫn chủ yếu hướng đến phân khúc thị trường trung bình, trong khi sản phẩm của các nước CPTPP thường hướng đến phân khúc thị trường cao cấp.
Theo các nhà nghiên cứu, để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm nông nghiệp, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị định theo hướng cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thí điểm một số mô hình sản xuất tiên tiến, thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ, hỗ trợ DN và nông dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp… Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn của Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với các công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, có cơ sở để kỳ vọng các sản phẩm do các tập đoàn này làm ra sẽ có khả năng cạnh tranh trên sân nhà.
Cùng với việc nhận diện những thách thức trên, cần đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi DN đều nhận thức được cơ hội, thách thức của CPTPP nói riêng cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các FTA thế hệ mới nói chung.
Hai là, khung khổ pháp luật, thể chế. Để thực thi cam kết trong Hiệp định CPTPP sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn... Vì vậy, sức ép phải thay đổi hệ thống pháp luật khi thực thi cam kết trong Hiệp định CPTPP sẽ phải điều chỉnh theo 3 nội dung: (i) Những cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (Ví dụ như: Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ) đã được 11 nước "tạm hoãn" sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP; (ii) Nhiều cam kết tuy mới nhưng lại phù hợp hoàn toàn với đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (Ví dụ như: Trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, DN nhà nước, DN nhỏ và vừa...) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn.
Từ kinh nghiệm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho thấy, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao, Việt Nam có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi chúng ta được quyền thực hiện theo lộ trình. Cụ thể, ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp khẩn trương rà soát các quy định hiện hành trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách để đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Sau khi Hiệp định CPTPP được Quốc hội phê chuẩn, một chương trình xây dựng pháp luật thực thi Hiệp định CPTPP với các nội dung cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới kèm theo phân công và thời hạn cụ thể cũng được ban hành để Chính phủ và các bộ, ngành thực hiện.
Ba là, thách thức đối với DN. Cạnh tranh tăng lên khi tham gia Hiệp định CPTPP có thể làm cho một số DN, trước hết là các DN vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, của các DN có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu lâm vào tình trạng khó khăn (thậm chí phá sản), kéo theo đó là khả năng dẫn đến tình trạng thất nghiệp trong một bộ phận lao động có thể xảy ra. Tuy nhiên, do phần lớn các nền kinh tế trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn. Đồng thời, với cơ hội mới có được, chúng ta sẽ có điều kiện để tạo ra nhiều việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành Việt Nam thực sự có lợi thế cạnh tranh.
Do vậy, để hỗ trợ các DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa, có thể tận dụng được tối đa những cơ hội cũng như giảm thiểu những thách thức gặp phải trong quá trình thực thi Hiệp định CPTPP, Chính phủ đã, đang chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, nhằm nâng cao nhận thức của DN về các quy định, cam kết của Hiệp định.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành chủ động nghiên cứu, vận dụng các biện pháp phi thuế quan như: Các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại được phép áp dụng theo các cam kết quốc tế của Việt Nam nói chung và Hiệp định CPTPP nói riêng để bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ nên có các chính sách ưu đãi hỗ trợ DN để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra, trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động.
Bốn là, thách thức đối với việc thu ngân sách nhà nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ tác động làm giảm số thu ngân sách nhà nước, tuy nhiên sẽ không tác động ngay đến nền kinh tế, do trong Hiệp định CPTPP có đến 7/10 nước đã ký kết FTA với Việt Nam, chỉ còn 3 nước (Canada, Mexico, Peru) chưa ký kết FTA với Việt Nam nhưng việc trao đổi thương mại giữa các nước còn khiêm tốn.
Trước tác động của hội nhập quốc tế đến công tác thu ngân sách, theo chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công, Bộ Tài chính đã, đang thực hiện tái cơ cấu ngân sách nhà nước, trong đó, chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân sách, chính sách thuế, quản lý thuế, hải quan, nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, mở rộng cơ sở thuế, tăng thu nội địa, trên cơ sở đó đảm bảo bền vững ngân sách nhà nước, an ninh, an toàn tài chính quốc gia.
Với những lợi ích mà Hiệp định CPTPP mang lại, các DN trong và ngoài nước sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có thể đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước thông qua các khoản thu thuế nội địa như thuế thu nhập DN… Điều này sẽ phần nào giúp cân bằng nguồn thu - chi cho ngân sách quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
- Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Trang điện tử Bộ Công Thương - moit.gov.vn;
- Chuyên đề: Hiệp định CPTPP: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam – Tạp chí Tài chính (tapchitaichinh.vn) tháng 3/2018;
- CPTPP và tác động của nó đến xuất nhập khẩu, Tạp chí Cộng sản (tháng 4/2018);
- Hiệp định CPTPP có hiệu lực, cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn ở 3 cấp độ. http://cafef.vn/hiep-dinh-cptpp-co-hieu-luc-canh-tranh-se-quyet-liet-hon-o-3-cap-do-20190102074448791.chn.