Tác động của thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu và khuyến nghị đối với Việt Nam

TS. Lê Quang Thuận - Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính)

Thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu được nhiều nước thống nhất thông qua nhằm giải quyết vấn đề cạnh tranh thuế giữa các quốc gia. Thoả thuận này được đánh giá là có lợi nhiều hơn cho các nước đầu tư vốn ra nước ngoài và tác động không thuận lợi đến việc thu hút đầu tư vào các quốc gia đang phát triển. Bài viết này đề cập đến những nội dung cơ bản của Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu, tác động đến các nước và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Khái quát về Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số và sự cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia để thu hút đầu tư đã kéo dài hàng chục năm qua, vấn đề thất thu thuế đã trở thành mối quan tâm chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Thỏa thuận thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu, gọi tắt là “Thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu-Global Minimum Corporate Tax” được Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới (G20) và 136 quốc gia thành viên Diễn đàn Hợp tác thực hiện các giải pháp chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (OECD Inclusive Framework – OECD IF) thống nhất thông qua.

Với quy định về thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia có tổng doanh thu từ 750 triệu EUR (hay 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề gần nhất, một công ty đa quốc gia sẽ phải nộp thuế bổ sung phần chênh lệch đối với các khoản lợi nhuận tạo ra tại các quốc gia có thuế suất dưới mức tối thiểu này. Thoả thuận này được đánh giá là có lợi nhiều hơn cho các nước đầu tư vốn ra nước ngoài. Trong khi đó, một số quốc gia, chủ yếu là các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư lo ngại rằng Thỏa thuận này sẽ tác động tiêu cực và gây thiệt hại đối với nền kinh tế.

Thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu – Bối cảnh ra đời và các nguyên tắc cốt lõi

Bảng 1: Dòng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2017 – 2021

(tỷ USD)

Chỉ tiêu

2017

2018

2019

2020

2021

Vốn thực hiện

17,5

19,1

20,4

19,9

19,7

Vốn đăng ký

35,9

35,5

38,02

28,5

31,2

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Thực tế trong những thập kỷ qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện các chính sách ưu đãi thuế, giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp... như là một công cụ cạnh tranh, tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư quốc gia nhằm: (i) Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; (ii) Thúc đẩy phát triển các ngành, nghề ưu tiên; (iii) Khuyến khích phát triển kinh tế vùng, miền; (iv) Thúc đẩy tạo việc làm trong nền kinh tế; (v) Khuyến khích xuất khẩu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa các hàng hóa xuất khẩu. Ngoài ra, ưu đãi thuế còn được áp dụng nhằm khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ, khuyến khích phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường hay để hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích phát triển các dự án đầu tư sử dụng công nghệ tiên tiến...

Do sự cạnh tranh giữa các quốc gia về chính sách thuế đã dẫn đến sự chênh lệch lớn về nghĩa vụ thuế đối với các doanh nghiệp có hoạt động đầu tư kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau đã làm phát sinh các hành vi chuyển giá, tránh thuế... bằng cách chuyển lợi nhuận sang những nước/vùng lãnh thổ có mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng không (0%), làm xói mòn cơ sở thuế và ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước của các quốc gia có mức thuế suất cao hơn. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển của nền kinh tế số, các công ty đa quốc gia có thể thực hiện hoạt động kinh doanh ở các quốc gia khác nhau mà không phải thành lập cơ sở đại diện (không có hoặc có rất ít sự hiện diện thực tế). Các hành vi tránh thuế rất đa dạng nhằm khai thác triệt để các kẽ hở và sự chênh lệch, khác biệt trong chính sách thuế giữa các quốc gia. Chẳng hạn như: hành vi chuyển giá; lợi dụng sự khác biệt về chính sách thuế liên quan đến chi phí được trừ, nhất là chi phí lãi vay giữa các công ty có quan hệ liên kết...; lợi dụng sự thiếu đồng bộ của pháp luật thuế quốc gia với các hiệp định thuế quốc tế; lợi dụng sự hạn chế của cơ quan thuế trong quản lý thuế đối với các giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới, các mô hình kinh doanh mới trên nền tảng số...

Vì vậy, Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) đã được các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới (G20) khởi xướng từ năm 2013, trong đó đã xác định 15 hành động chung, tạo sự thống nhất trong các quy tắc đánh thuế giữa các quốc gia nhằm mục tiêu chung là chống thất thu ngân sách. OECD đã kêu gọi triển khai các hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận không chỉ với các thành viên tổ chức OECD và G20 mà còn với tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Ngày 8/10/2021, OECD và G20 đã ra Tuyên bố chung về “Giải pháp Hai trụ cột nhằm giải quyết những thách thức về thuế phát sinh từ số hóa nền kinh tế”. Trong đó:

+ Trụ cột 1 (Pillar One): “Phân chia quyền đánh thuế (Profit Allocation and Nexus)". Trụ cột 1 đưa ra các nguyên tắc phân bổ quyền đánh thuế, cho phép một quốc gia đánh thuế một phần lợi nhuận của doanh nghiệp đa quốc gia có hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ đến người tiêu dùng ở quốc gia đó qua các nền tảng kỹ thuật số. Đặc biệt, quyền đánh thuế này không yêu cầu sự hiện diện trực tiếp của doanh nghiệp tại quốc gia đó hay không.

+ Trụ cột 2 (Pillar Two): “Thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (Global Minimum Corporate Tax). Trụ cột 2 đưa ra giải pháp về thuế suất tối thiểu toàn cầu với mục tiêu đảm bảo lợi nhuận của các công ty đa quốc gia phải nộp ở mức tối thiểu trong trường hợp khoản lợi nhuận đó đang được áp dụng mức thuế suất thấp hơn hoặc không phải nộp thuế. Trụ cột 2 quy định mức thuế tối thiểu toàn cầu là 15% đối với các công ty đa quốc gia có tổng doanh thu từ 750 triệu EUR (hay 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề gần nhất.

Với quy định về thuế suất tối thiểu toàn cầu, một công ty đa quốc gia sẽ bị đánh thuế 15% đối với các khoản lợi nhuận tạo ra tại các quốc gia (có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất thấp) thông qua cơ chế đánh thuế bổ sung, dựa trên căn cứ xác định mức thuế suất thực. Trong kỳ tính thuế, nếu thuế suất thực của một công ty con thấp hơn thuế suất tối thiểu được thỏa thuận trên toàn cầu, thì công ty mẹ phải nộp “thuế bổ sung” trên phần thu nhập tương ứng trong thu nhập của công ty con bị đánh thuế thấp hơn mức thuế tối thiểu toàn cầu, cho quốc gia nơi đặt trụ sở (thường được gọi là quốc gia mẹ hoặc quốc gia cư trú). Do đó, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ góp phần tạo ra một hệ thống thuế có sự phối hợp của nhiều quốc gia nhằm đảm bảo các công ty đa quốc gia lớn phải trả mức thuế tối thiểu đối với thu nhập phát sinh tại mỗi nước/vùng lãnh thổ mà công ty đó có hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đối với các công ty đa quốc gia có doanh thu hàng năm thấp hơn mức 750 triệu EUR, các nước vẫn có thể lựa chọn áp dụng thuế tối thiểu nếu trụ sở chính của công ty đặt tại quốc gia đó. Thuế tối thiểu toàn cầu sẽ không áp dụng cho các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, các tổ chức phi lợi nhuận, hoặc thu nhập từ vận chuyển quốc tế...

Ba nguyên tắc cốt lõi của Trụ cột 2 - thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu bao gồm: (1) Nguyên tắc gộp thu nhập (Income Inclusion Rule – IIR); (2) Nguyên tắc đối với khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu toàn cầu (Undertaxed Payment Rule – UTPR) và; (3) Nguyên tắc quyền đánh thuế của nước nguồn (Subject to Tax Rule). Cụ thể:

- Nguyên tắc gộp thu nhập (IIR) cho phép quốc gia nơi đăt trụ sở của công ty mẹ tối cao (Ultimate Parent Entity - UPE) được đánh thuế bổ sung đối với phần chênh lệch giữa mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% và mức thuế suất thực tế (ETR) trong trường hợp các công ty con và chi nhánh có mức thuế suất thực tế dưới mức tối thiểu 15%.

- Nguyên tắc đối với khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu toàn cầu (UTPR) là nguyên tắc bổ trợ cho nguyên tắc IIR, áp dụng trong trường hợp công ty con đang chịu thuế ở mức thấp hơn tối thiểu nhưng chưa bị đánh thuế bổ sung đối với phần thu nhập của công ty con. Do đó, nếu công ty mẹ thực hiện các khoản thanh toán cho công ty con nêu trên thì công ty mẹ không được trừ vào chi phí cho khoản thanh toán đó hoặc phải điều chỉnh tương ứng lên 15% đối với phần thu nhập của công ty con chưa chịu mức thuế suất tối thiểu.

- Nguyên tắc quyền đánh thuế của nước nguồn (STTR) cho phép quốc gia nguồn phát sinh thu nhập được quyền đánh thuế ở mức thuế suất tối thiểu 9% đối với một số khoản thanh toán nhất định cho bên liên kết chịu thuế ở dưới mức thuế suất tối thiểu 9% này. Các khoản thanh toán này bao gồm: lãi tiền vay, tiền bản quyền và một số khoản thanh toán khác như nhượng quyền thương mại, sử dụng hoặc quyền sử dụng tài sản vô hình kết hợp với dịch vụ bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm, bảo lãnh, môi giới...

Ba nguyên tắc nêu trên được phối hợp áp dụng chặt chẽ nhằm đảm bảo thu nhập của các công ty đa quốc gia phải chịu mức thuế suất tối thiểu 15% cũng như cho phép quốc gia nguồn phát sinh thu nhập được quyền đánh thuế ở mức thuế suất tối thiểu 9% đối với một số khoản thanh toán nhất định cho bên liên kết. Trong 3 nguyên tắc nêu trên, thứ tự áp dụng như sau:

- Nguyên tắc STTR sẽ được áp dụng trước Nguyên tắc IIR và Nguyên tắc UTPR (gọi chung là Bộ nguyên tắc chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu –GloBE rules).

- Nguyên tắc gộp thu nhập (IIR) sẽ được áp dụng trước Nguyên tắc UTPR.

- Nguyên tắc UTPR áp dụng trong trường hợp Nguyên tắc IIR không được áp dụng hoặc không được áp dụng toàn bộ, với mục đích đảm báo các thu nhập đang chịu mức thuế suất thấp sẽ phải chịu thuế ở mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15%.

Ngày 2/2/2023, OECD đã ban hành Hướng dẫn kỹ thuật nhằm thực hiện Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu, là cơ sở để các quốc gia triển khai nội luật hóa quy định của Thỏa thuận, hướng tới mục tiêu áp dụng từ năm 2024.

Tác động Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu đối với các quốc gia

Việc các nước Nhóm G7 thống nhất vào ngày 5/6/2021, Nhóm G20 thống nhất vào ngày 10/7/2021 và gần đây nhất là 136 nước thành viên của Diễn đàn OECD-IF đồng thuận việc áp dụng Trụ cột 2 - Thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu được coi là một cải cách mang tính lịch sử nhằm thực hiện Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS), hạn chế sự cạnh tranh về thuế có tính chất của một “cuộc đua xuống đáy” và giải quyết vấn đề thất thu thuế toàn cầu, cả quốc gia có vốn đầu tư và quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư.

Mặc dù vậy, quan điểm của các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển không hoàn toàn đồng nhất. Thoả thuận này được đánh giá là có lợi nhiều hơn cho các nước đầu tư vốn ra nước ngoài, chủ yếu là các nước phát triển, bởi các nước này sẽ thu được thuế nhiều hơn đối với các doanh nghiệp của họ đầu tư ra nước ngoài. Thực tế cho thấy, phần lớn các tập đoàn đa quốc gia có quy mô lớn trên thế giới, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ, đều thuộc về các nước phát triển, các nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính mạnh thuộc nhóm G7, G20. Do đó, sáng kiến này là do các quốc gia thành viên của OECD, nhóm G20 và nhóm G7 khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ. Trong khi đó, một số quốc gia, chủ yếu là các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư và các nền kinh tế được coi là “nơi trú ẩn thuế” lo ngại rằng Thỏa thuận này sẽ tác động tiêu cực và gây thiệt hại nặng nề đối với nền kinh tế của họ vì các nước này phần lớn dựa vào các dịch vụ và tài chính trung gian.

Việc thực hiện thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu sẽ tác động đến dòng vốn đầu tư toàn cầu theo các hình thức sau:

Một là, các công ty đa quốc gia sẽ phải hoạch định lại chiến lược đầu tư của mình nhằm tối ưu hóa về thuế trong bối cảnh thuế suất tối thiểu toàn cầu cũng như cân nhắc các giải pháp đối với các hoạt động đầu tư đang được hưởng ưu đãi thuế trên phạm vi toàn cầu và tại từng quốc gia họ đang và sẽ đầu tư. Theo đó, các công ty vệ tinh theo chuỗi cung ứng của các công ty đa quốc gia cũng sẽ phải tính toán, điều chỉnh chiến lược đầu tư của mình theo sự thay đổi của các công ty đa quốc gia để tối ưu hóa chi phí và lợi nhuận của mình. Theo OECD, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ làm chi phí đầu tư toàn cầu tăng lên và do đó có thể làm giảm 0,1 điểm % GDP toàn cầu trong ngắn hạn.

Hai là, các quốc gia nơi có trụ sở chính của công ty mẹ (nước có vốn đầu tư) sẽ thực hiện quyền thu thuế bổ sung đối với phần chênh lệch giữa mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% và mức thuế suất thực tế (ETR) trong trường hợp các công ty con và chi nhánh có mức thuế suất thực tế dưới mức tối thiểu 15%. Theo đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một phần có thể quay lại các quốc gia phát triển khi động cơ lẩn tránh thuế giảm xuống và các tập đoàn sẽ quan tâm hơn tới môi trường kinh doanh, triển vọng kinh tế khi lựa chọn quyết định đầu tư trong khi sẽ hạn chế vốn tới các quốc gia đang phát triển khi các ưu đãi thuế không còn hấp dẫn.

Ba là, các nước nguồn phát sinh thu nhập (nước tiếp nhận vốn đầu tư) sẽ bị suy giảm vị thế cạnh tranh dòng vốn đầu tư bằng chính sách ưu đãi thuế. Việc áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu có thể khiến các công ty đa quốc gia phân bổ lại hoạt động đầu tư giữa các quốc gia, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển do ưu đãi về thuế không còn hấp dẫn.

Theo đánh giá, trong 150 tỷ USD tăng thu từ thuế phân bổ lại cho các quốc gia mỗi năm mà OECD dự tính, phần lớn sẽ thuộc về các quốc gia phát triển, các quốc gia đang phát triển chỉ được hưởng phần nhỏ hơn rất nhiều. Các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư có thể bị thiệt hại do các nhà đầu tư dịch chuyển các dự án đầu tư đến những địa điểm có điều kiện khác (ngoài thuế) thuận lợi hơn, ví dụ như môi trường chính trị ổn định, thể chế, chính sách minh bạch, thủ tục hành chính đơn giản thông thoáng, nguồn nhân lực chất lượng cao, chi phí hợp lý...

Hiện nay, qua nghiên cứu cho thấy một số quốc gia đang có những hành động để chuẩn bị thực hiện Trụ cột 2-Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu:

+ Các quốc gia phát triển (Hàn Quốc, Nhật Bản, EU...) đang tiến hành các thủ tục pháp lý để nội luật hóa các quy định của Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu để áp dụng theo lộ trình, dự kiến áp dụng Nguyên tắc gộp thu nhập (IIR) từ ngày 01/01/2024, áp dụng Nguyên tắc đối với khoản thanh toán chịu thuế dưới mức tối thiểu (UTPR) từ ngày 01/01/2025.

+ Các quốc gia đang phát triển hầu như chưa công bố lộ trình áp dụng Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu nhưng cũng đang thực hiện rà soát, sửa đổi chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đầu tư nước ngoài nhằm tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Tác động của Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu đối với Việt Nam

Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu khi được áp dụng dự kiến tạo ra cơ hội cũng như các thách thức đối với Việt Nam như sau:

Cơ hội

Thứ nhất, theo nguyên tắc quyền đánh thuế của nước nguồn (STTR), Việt Nam có quyền thu thuế với mức thuế suất tối thiểu 9% đối với một số khoản thanh toán nhất định cho bên liên kết ở dưới mức tối thiểu.

Thứ hai, theo nguyên tắc chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu (GloBE), Việt Nam có quyền áp dụng mức thuế suất nội địa tối thiểu 15% để thực hiện quyền thu thuế trong trường hợp công ty đa quốc gia tại Việt Nam có mức thuế suất thực (ETR) dưới 15%.

Thứ ba, Việt Nam có cơ hội thu thêm phần thuế suất chênh lệch giữa thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% và mức thuế suất thực tế mà doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư ra nước ngoài dưới 15%.

Thách thức

Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể suy giảm.

Việt Nam luôn coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển và luôn coi trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong thời gian qua, Việt Nam đã điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ mức 32%, xuống các mức 28%, 25%, 22% và hiện tại là 20%; đồng thời, áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi cả về thuế suất và thời gian thì mức thuế suất thực tế có thể ở mức thấp hơn 15%. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành nơi thu hút đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế và đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao của nhiều tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia đến đầu tư kinh doanh với mức vốn đầu tư cam kết và thực hiện ngày càng tăng.

Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn trước khi thực hiện cải cách và mở cửa, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là sản xuất nông nghiệp với tỷ trọng hơn 38% GDP, sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu; lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng 33% GDP; lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 29% GDP, chủ yếu là công nghiệp khai khoáng, điện, giấy. Tuy nhiên, sau hơn 35 năm thu hút đầu tư nước ngoài, đến nay, bức tranh nền kinh tế đã có sự thay đổi rõ nét, toàn diện, trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là lĩnh vực dịch vụ (41%), thứ hai là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (34%) và thứ ba là lĩnh vực nông nghiệp (15%). Đầu tư nước ngoài đã hiện diện ở tất cả các ngành, địa phương, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội các địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài đã góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics, giáo dục – đào tạo, y tế, khách sạn, du lịch... tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp phần kích thích hoạt động thương mại nội địa, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu, tạo ra một số phương thức sản xuất mới ở một số địa phương. Mặt khác, đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo việc làm cho hàng triệu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Hơn nữa, đầu tư nước ngoài cũng góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp; hỗ trợ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; đổi mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài còn đóng góp quan trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực đầu tư nước ngoài cũng đã thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ... Ngoài ra, việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã góp phần tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường, từng bước tiệm cận và phù hợp với thông lệ quốc tế tốt. Nhờ đó, đóng góp của đầu tư nước ngoài vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, nếu như năm 1986-1996, khu vực đầu tư nước ngoài chỉ đóng góp 15,05% thì đến giai đoạn 2010-2017 đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài là 27,7%.

Do đó, Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến số thu thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam đối với các công ty đa quốc gia có công ty con đang hoạt động tại Việt Nam theo quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành nhưng sẽ khiến cho chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam giảm đi tính hấp dẫn, từ đó tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế đối với các doanh nghiệp FDI. Theo ước tính, có khoảng hơn 1.000 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có doanh thu trên 750 triệu Euro (Theo báo cáo tài chính năm 2021) sẽ bị ảnh hưởng bởi Thỏa thuận thuế doanh nghiệp toàn cầu.

Thứ hai, tác động đến quyền thu thuế của Việt Nam.

Tương tự như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam thực hiện quyền thu thuế dựa trên quyền theo lãnh thổ và quyền theo quốc tịch. Theo đó, mọi doanh nghiệp đang có hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, mọi doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động đầu tư ở nước ngoài cũng phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu nhập phát sinh cả ở trong nước và ở nước ngoài.

Việt Nam có quyền thu thuế theo nguyên tắc quyền đánh thuế của nước nguồn (STTR) và quyền áp dụng mức thuế suất nội địa tối thiểu 15% theo nguyên tắc GloBE. Tuy nhiên, để hiện thực hóa quyền thu thuế này, Việt Nam phải thực hiện nội luật hóa các nguyên tắc của Trụ cột 2 - Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Thứ ba, tác động đến công tác quản lý thuế đối với các công ty đa quốc gia tại Việt Nam.

Trong bối cảnh nền kinh tế số và toàn cầu hóa thì công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế đối với các công ty đa quốc gia nói riêng là một thách thức lớn, ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách nhà nước. Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu được kỳ vọng là giải pháp làm giảm động cơ trốn, tránh thuế của các công ty đa quốc gia thông qua việc sử dụng cơ chế giá nội bộ để chuyển giá. Theo đó, thất thu ngân sách do các hành vi chuyển giá của các công ty đa quốc gia ở Việt Nam có khả năng sẽ được giảm thiểu. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các công ty đa quốc gia, các hành vi giao dịch giữa các công ty thành viên vẫn sẽ là thách thức lớn đối với cơ quan thuế. Thách thức này càng lớn hơn khi xuất hiện các mô hình kinh doanh mới, lấn át hoặc thay thế các mô hình kinh doanh truyền thống, đòi hỏi cơ quan thuế phải thay đổi phương thức quản lý, tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin với các cơ quan thuế trên thế giới.

Khuyến nghị chính sách

Việt Nam cần điều chỉnh chính sách để thích ứng với bối cảnh mới. Việc điều chỉnh chính sách cần đảm bảo: (1) Phù hợp với các quy tắc chung của Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu; (2) Tiếp tục tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; (3) Hài hòa lợi ích của nhà đầu tư và quyền thu thuế của Việt Nam để đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, tác giả xin khuyến nghị một số nội dung như sau:

Một là, bổ sung quy định về cơ chế thuế suất tối thiểu nội địa.

Theo nguyên tắc chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu (GloBE), các công ty đa quốc gia có doanh thu hợp nhất 750 triệu Euro trở lên phải chịu mức thuế suất thực tế (ETR) 15% tại nơi hoạt động. Theo đó, các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư - nơi tạo ra nguồn thu nhập được quyền ưu tiên thu thuế bằng cách áp dụng Cơ chế thuế suất tối thiểu nội địa đạt chuẩn (Qualified Domestic Minimum Top-up Taxes – QDMTT). Trong trường hợp thu nhập gộp công ty đa quốc gia tại một quốc gia có mức thuế suất thực tế thấp hơn 15% thì GloBE cho phép các quốc gia có công ty con được quyền thu thuế bổ sung đối với phần chênh lệch. Vì vậy, để đảm bảo quyền thu thuế đối với các công ty đa quốc gia đang có hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà có mức thuế suất thực tế tối thiểu dưới 15%, Việt Nam cần có quy định về cơ chế thuế suất tối thiểu nội địa 15% theo nguyên tắc GloBE đối với các công ty đa quốc gia có doanh thu hợp nhất 750 triệu Euro trở lên.

Hai là, giữ nguyên thuế suất phổ thông 20%.

So với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại của Việt Nam (20%), cao hơn Singapore (17%) tương đương với Thái Lan (20%) và thấp hơn một số nước trong khu vực châu Á và trên thế giới (Trung Quốc 25%; Hàn Quốc 27,5%; Nhật Bản 29,74%; Malaysia 24%; Philippines 25%; Myanmar 22%…). Do đó, mức thuế suất pháp định phổ thông 20% tại Việt Nam không cần thiết phải xem xét điều chỉnh.

Ba là, hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế nhằm tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Chính sách ưu đãi thuế tuy không phải là yếu tố quan trọng nhất nhưng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cần xác định mục tiêu rõ ràng là không chỉ nhằm phù hợp với điều thực thi Thỏa thuận thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu mà còn nhằm thiết kế lại các chính sách ưu đãi thuế một cách đồng bộ với các chính sách khác ngoài thuế nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư, trong đó nhằm thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chất lượng cao vào Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Đồng thời, cần rà soát, chỉnh sửa các quy định của Luật Đầu tư liên quan đến hình thức ưu đãi đầu tư, đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, ngành nghề và địa bàn ưu đãi đầu tư...

Bốn là, hoàn thiện chính sách khác ngoài thuế.

Cùng với việc xem xét sửa đổi chính sách ưu đãi thuế hợp lý hơn thì Việt Nam cũng cần nghiên cứu, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư về các chính sách ngoài thuế (chẳng hạn: miễn, giảm tiền thuê đất, cải cách thủ tục hành chính nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp…). Đồng thời, Việt Nam cần phát huy lợi thế về ổn định chính trị; kiên định, chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ kết hợp với chính sách tài khóa, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa hỗ trợ doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh tiếp cận với nguồn vốn hợp lý cho sản xuất kinh doanh.

Năm là, tăng cường hợp tác về thuế giữa các quốc gia nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp hành động trong quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu ngân sách nhà nước.

Tài liệu tham khảo:

  1. Ngô Thế Chi (2013), “Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá trong điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc đang hoạt động tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính;
  2. Vũ Nhữ Thăng (2017), “Gói hành động về xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS): Khả năng áp dụng tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính;
  3. OECD (2022), Tax Incentives and the Global Minimum Corporate Tax: Reconsidering Tax Incentives after the GloBE Rules, OECD Publishing, Paris, https://doi.org/10.1787/25d30b96-en;
  4. Carmel Peters (2015), “Developing Countries’ Reactions to the G20/ OECD Action Plan on Base Erosion and Profit Shifting”, Bulletin for International Taxation”.
Tác động của thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu và khuyến nghị đối với Việt Nam - Ảnh 1
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2023