EVFTA và 3 thách thức đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam
Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do EVFTA (ngày 30/6/2019). Hiệp định EVFTA mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng cũng có không ít thách thức yêu cầu họ phải tìm hiểu kỹ các cam kết của Hiệp định, thay đổi công nghệ, quy trình sản xuất… để tiếp cận thị trường EU.
Cơ hội mở rộng thị trường
Về vĩ mô, theo các tính toán của chuyên gia Việt Nam, Hiệp định EVFTA có thể sẽ góp phần làm tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% cho giai đoạn từ năm 2019 đến 2023; 4,57 đến 5,30% cho giai đoạn năm 2024 đến 2028 và từ 7,07 đến 7,72% cho giai đoạn năm 2029 đến 2033. Song song với tăng trưởng kinh tế, Hiệp định EVFTA cũng giúp tăng thêm việc làm khoảng 146.000 lao động mỗi năm…
Đối với doanh nghiệp Việt Nam, EVFTA mở ra nhiều cơ hội về xuất nhập khẩu. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ nhì của EU trong toàn khối ASEAN, chỉ sau Singapore, với kim ngạch hàng hóa 49,3 tỷ Euro và kim ngạch dịch vụ trong khoảng 3 tỷ Euro.
Về xuất khẩu, các DN Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tăng khả năng cạnh tranh về giá hàng hóa khi nhập khẩu vào EU bởi được xóa bỏ 99% thuế quan. Các ngành dự kiến sẽ được hưởng lợi nhiều nhất là dệt may, giày dép và hàng nông sản.
Về nhập khẩu, các DN Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu với chất lượng tốt và ổn định với mức giá hợp lý hơn từ EU. Đặc biệt, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội được tiếp cận với nguồn máy móc, thiết bị, công nghệ/kỹ thuật cao từ các nước EU, qua đó để nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm của mình.
Về đầu tư, môi trường đầu tư mở hơn và thuận lợi hơn, triển vọng xuất khẩu hấp dẫn hơn sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ EU vào Việt Nam nhiều hơn.
Bên cạnh đó, với việc thực thi các cam kết trong EVFTA về các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới, môi trường kinh doanh và chính sách, pháp luật Việt Nam sẽ có những thay đổi, cải thiện theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
3 thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam
EU là thị trường có mức thu nhập cao, cũng là thị trường có chính sách bảo vệ người tiêu dùng chặt chẽ với những rào cản về kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu là rất lớn. Do đó, hàng hóa Việt Nam muốn thâm nhập sâu rộng vào thị trường này cần phải chú ý một số vấn đề về quy tắc xuất xứ, các quy định về sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường và các vấn đề về kỹ thuật. Đây cũng là những thách thức lớn đối với các DN Việt Nam.
Một là, khó khăn trong thực thi các quy tắc xuất xứ của EVFTA.
EVFTA xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới 99,2% số dòng thuế. Tuy nhiên, để được hưởng mức ưu đãi này, hàng xuất khẩu sang EU cần thoả mãn quy tắc xuất xứ. Đây có thể là một cản trở đối với hàng xuất khẩu Việt Nam bởi nguồn nguyên liệu cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc và ASEAN. Nếu không đảm bảo được quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức thuế đãi ngộ tối huệ quốc chứ không phải là mức thuế suất 0% trong EVFTA.
Hai là, khó khăn trong việc tuân thủ những quy định về sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường từ EVFTA.
Hiện phần lớn DN Việt Nam còn khá thờ ơ với vấn đề sở hữu trí tuệ, trong khi đây là yêu cầu hàng đầu của EU đặt ra rất cao mà bất kỳ hàng hóa tham gia vào thị trường này đều phải thực thi. Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới những quy tắc về sở hữu trí tuệ trong EVFTA để có thể khai thác được lợi ích từ hiệp định này.
Về sử dụng lao động, những vướng mắc phổ biến liên quan đến việc người lao động làm thêm quá số giờ quy định; quy định về nghỉ tuần, nghỉ lễ; môi trường làm việc, vệ sinh an toàn lao động; quyền tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ, quyền được hỗ trợ của lao động nữ nơi làm việc và nuôi con nhỏ... Các vấn đề về sử dụng lao động có thể là một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Bên cạnh đó, hiện Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong vấn đề thực hiện các nghĩa vụ về môi trường trong khuôn khổ các ràng buộc và điều chỉnh thương mại. Đồng thời, nguồn lực dành cho hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế, ý thức và năng lực của cán bộ quản lý cũng như người dân chưa cao. Thực trạng này đặt ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam do những yêu cầu từ phía EU đối với DN xuất khẩu Việt Nam trong thực hiện các trách nhiệm về bảo vệ môi trường.
Ba là, rào cản kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu từ phía EU rất chặt chẽ.
Việc thâm nhập vào thị trường EU vẫn còn khó khăn từ các hàng rào phi thuế quan về kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường EU. Điển hình là mặt hàng nông sản, đa số ngành hàng nông sản của nước ta như chè, rau quả... vẫn vấp phải những hạn chế do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thiếu tính đồng nhất trong từng lô hàng, công tác thu hoạch bảo quản chưa tốt nên chất lượng còn hạn chế.
Để vượt qua các rào cản, thách thức nêu trên, các chuyên gia phân tích cho rằng, bên cạnh các chính sách hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp quy trình sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực của Chính phủ, bản thân các DN Việt Nam cũng phải hiểu được EVFTA, các cam kết, cơ cấu lại thị trường, cơ cấu lại đối tác, đổi mới công nghệ, hoàn thiện quy trình sản xuất.