Tài chính Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới đất nước
Ngành Tài chính Việt Nam chính thức ra đời ngày 28/8/1945 cùng với sự ra đời của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trải qua chặng đường phấn đấu và thử thách, ngành Tài chính đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, góp phần hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và cải thiện đời sống nhân dân.
Trong những ngày đầu của Cách mạng, tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, vừa chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, vừa xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, trong khi ngân quỹ Trung ương có vẻn vẹn 1.200.000 đồng Đông Dương đã đặt ra cho ngành Tài chính nhiều nhiệm vụ rất cấp bách và nặng nề. Ngành Tài chính đã giúp Chính phủ sử dụng nguồn vốn huy động được để giải quyết các nhu cầu chi tiêu to lớn để tổ chức bộ máy Nhà nước cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đất nước ta bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Với đường lối và chủ trương cụ thể trong giai đoạn cách mạng mới mà Đảng đã đề ra, ngành Tài chính đã đề xuất và được Nhà nước cho thi hành một số biện pháp tạm thời về thuế đối với vùng mới giải phóng, đồng thời tiến hành việc thu đổi tiền Đông Dương, phát hành đồng tiền ngân hàng của ta trong vùng mới giải phóng...
Năm 1975 thắng lợi lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của lịch sử Việt Nam. Cả nước bước vào thời kỳ xây dựng CNXH với những thuận lợi mới, song cũng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Phương hướng, nhiệm vụ của tài chính quốc gia trong thời kỳ này là từng bước thực hiện quản lý tập trung, thống nhất các nguồn thu, chi tài chính theo chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chung của Nhà nước, bảo đảm trách nhiệm và tính chủ động của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, cải tiến quan hệ giữa tài chính nhà nước, tài chính xí nghiệp và tín dụng ngân hàng.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính. Sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI), với chủ trương kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế - tài chính nước ta đã có những chuyển biến tích cực, cơ chế thị trường từng bước hình thành thay thế dần cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong giai đoạn 1986 – 1990, các chế độ thu quốc doanh, các pháp lệnh về thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp được bổ sung sửa đổi, hệ thống thu ngân sách được cải cách, các bộ luật thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế được xây dựng và hoàn thiện từng bước. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, chính sách động viên tài chính không ngừng được hoàn thiện đi đôi với chế độ quản lý xí nghiệp từng bước được chấn chỉnh. Những bổ sung, sửa đổi chế độ thu quốc doanh và trích nộp lợi nhuận trong giai đoạn này là bước chuyển tiếp dẫn đến sự ra đời các luật thuế chung, có hiệu lực thi hành từ 1/10/1990.
Giai đoạn 1991 - 1995, thực hiện đường lối tiếp tục đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng đề ra tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII, ngành Tài chính đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh với nhiều sắc thuế khác nhau, đã bao quát phần lớn các nguồn thu và diện thu. Tổ chức bộ máy thu thuế được thiết lập lại theo một hệ thống thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Số thu từ thuế và phí vào NSNN tăng nhanh qua các năm, cùng với việc mở rộng diện thu và tăng cường công tác chống thất thu, công tác quản lý, cấp phát chi NSNN cũng được đổi mới theo hướng tập trung các khoản chi đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình then chốt, chú trọng các khoản chi trả nợ, chi dự trữ nhà nước và các khoản chi cho các yêu cầu về đầu tư cho y tế, giáo dục và đào tạo. Hệ thống Kho bạc Nhà nước ra đời năm 1990 đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều hành và quản lý NSNN. Công tác phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương đã có những bước tiến rõ rệt, đã chú trọng đến các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi và hải đảo, bảo đảm phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương trong khi vẫn giữ vị trí chủ đạo của ngân sách trung ương.
Trong giai đoạn từ 1991- 2000 - giai đoạn đầu của thời kỳ đất nước đổi mới và mở cửa, hệ thống tài chính của cơ chế kinh tế mới - thời mở cửa, hội nhập đã được tạo dựng. Tài chính đã từng bước làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Có thể đánh giá những thành tựu đã đạt được của ngành Tài chính trong giai đoạn đầu thời kỳ đất nước đổi mới và mở cửa như sau:
Trước hết, cùng với sự đổi mới tư duy quản lý kinh tế, những nhận thức mới về hoạt động tài chính trong quá trình cải cách kinh tế và xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được hình thành. Mạnh dạn dứt bỏ tư duy về một nền tài chính của kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta đã đổi mới nếp nghĩ, cách làm. Hình thành mới quan điểm về động viên và phân phối nguồn lực, đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội. Từ bỏ phương thức quản lý nền tài chính bằng biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh chuyển sang quản lý và điều hành tài chính, tiền tệ bằng luật pháp, bằng biện pháp kinh tế, bằng công cụ và đòn bẩy kinh tế. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ về tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, các cấp ngân sách, các đơn vị thụ hưởng ngân quỹ đã được xác lập và tăng cường, tạo điều kiện phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của đơn vị.
Ngành Tài chính chăm lo phát huy sức mạnh nguồn lực trong nước, giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài. Tranh thủ tối đa nguồn lực nước ngoài cho đầu tư phát triển, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị, mở rộng quan hệ về hợp tác kinh tế với tất cả các nước. Trong quản lý chi NSNN và sử dụng nguồn lực, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là giảm dần sự bao cấp của Nhà nước, trước hết là chế độ bao cấp đối với các doanh nghiệp, các hoạt động sự nghiệp công. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, văn hóa và nhiều hoạt động mang tính xã hội khác... đã khơi dậy và cuốn hút nhiều nguồn lực, tài trí trong dân, trong xã hội, trong nước và cả ở nước ngoài. Phạm vi bao cấp từ NSNN dần được thu hẹp và xóa bỏ, phạm vi trang trải của NSNN đang được xác lập, phù hợp hơn.
Quan điểm về tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đã được đổi mới cả trong tư duy và cách làm, cách thức huy động vốn cho đầu tư phát triển, cách thức cấp phát theo dự án, khoán chi, kiểm soát chi, biện pháp bù đắp bội chi NSNN. Ngay từ đầu năm 1992, chúng ta chấm dứt phát hành tiền để bù đắp bội chi NSNN, chấm dứt vay nợ cho chi thường xuyên. Điều quan trọng là chức năng tài chính trong kinh tế thị trường đã được nhận thức rõ hơn, mới hơn, không chỉ đơn thuần phân phối và giám sát các nguồn lực, mà còn tổ chức lưu chuyển thông thoáng, có chủ định các nguồn lực trong toàn bộ nền tài chính quốc gia, gồm cả tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư, trong một nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu cùng vận hành, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Thứ hai, bằng những chủ trương, chính sách đúng đắn, bằng sự nỗ lực của toàn ngành Tài chính, chúng ta đã động viên hợp lý sức người, sức của trong cả nước, thu hút có chủ định các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế, xây dựng nước Việt Nam XHCN giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thu, chi NSNN tăng đều qua các năm. So với năm trước, thu NSNN năm 1996 tăng 16,9%; năm 1997 tăng 4,8%; năm 1998 tăng 8%; năm 1999 tăng 8%. Tổng mức đầu tư toàn xã hội đã đạt trên 100 nghìn tỷ đồng, bằng 27% GDP.
Thứ ba, vấn đề cốt lõi là thiết lập và hoàn thiện từng bước hệ thống pháp lý và hệ thống chính sách tài chính. Bộ Tài chính đã nghiên cứu xây dựng chính sách tài chính làm căn cứ chiến lược chỉ đạo và điều hành công tác tài chính. Các quy định pháp lý về chính sách tài khóa, về NSNN, về thuế đã được ban hành. Luật NSNN có hiệu lực thi hành từ 1/1/1997 đã đảm bảo quản lý thống nhất NSNN, ngân quỹ quốc gia, quy định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của các ngành, các cấp trong quy trình quản lý và điều hành NSNN, góp phần khơi dậy mọi tiềm năng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế.
Khuôn khổ pháp lý về thuế đã không ngừng được cải cách. Trong chương trình cải cách thuế bước 2, nhiều luật thuế đã được ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi. Đặc biệt là sự ban hành mới Luật thuế Giá trị gia tăng và Thu nhập doanh nghiệp là bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam, góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, chuẩn bị điều kiện tiền đề cho Việt Nam hội nhập về kinh tế với các nước.
Thứ tư, với nhận thức, kinh tế là gốc của tài chính, nền tài chính mạnh là nền tài chính được vận hành trong một nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy, trong suốt mười năm đổi mới, tài chính Việt Nam luôn hướng về phục vụ, khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển. Từ nền kinh tế chỉ huy, từ NSNN bao cấp, chúng ta đã thành công trong việc xoá bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, sắp xếp lại DNNN, giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế, lợi ích tài chính. Nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm cả kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế liên doanh, liên kết, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại và kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển trước sự bình đẳng của luật pháp và sự công bằng của chính sách tài chính.
Ngành Tài chính đã chủ động trong lộ trình hội nhập, tham gia tích cực trong các quan hệ kinh tế tài chính song phương và đa phương. Việt Nam đã gia nhập AFTA, APEC, là thành viên của Liên đoàn Kế toán các nước ASEAN (AFA), thành viên của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC). Bằng chính sách tài chính linh hoạt, thích hợp, tháo gỡ từng vướng mắc, chúng ta đã mở cửa thu hút khối lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ năm, nhận thức rõ tiết kiệm là quốc sách, không chỉ chăm lo cho sản xuất phát triển, chăm lo động viên nguồn lực tài chính, mà còn coi trọng phân phối, sử dụng nguồn lực sao cho có hiệu quả, tiết kiệm. Thi hành Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, ngành Tài chính đã triển khai hàng loạt biện pháp tiết kiệm trong sản xuất, trong chi tiêu NSNN, quỹ công, trong tiêu dùng của dân cư. Hàng trăm tỷ đồng đã được tiết kiệm, dành ra để chi dùng cho những nhiệm vụ đột xuất, cho đầu tư, cho xoá đói, giảm nghèo...
Thứ sáu, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý điều hành của ngành Tài chính. Hệ thống tổ chức bộ máy ngành Tài chính đã không ngừng được, đổi mới, năng lực cán bộ ngành Tài chính không ngừng được hoàn thiện, nâng cao, đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Công tác hoạch định chính sách tài chính được tách dần khỏi các đơn vị điều hành và quản lý tài chính. Hệ thống thuế được tổ chức lại theo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến địa phương, phân chia rõ 3 bộ phận trong ngành Thuế, đảm bảo hành thu và kiểm tra việc thu thuế. Thực hiện Nghị quyết Trung ương VII, ngành Tài chính đã sắp xếp, tổ chức lại hệ thống quản lý tài chính chuyên ngành, bao gồm cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng cục Đầu tư phát triển, tiến hành một bước kiện toàn bộ máy của cơ quan thanh tra tài chính, bộ phận hợp tác quốc tế, hội nhập...
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tài chính ngày càng được tăng cường cả về số lượng, chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn và năng lực quản lý cho cán bộ, công chức đã được quan tâm đúng mức. Từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý. Phẩm chất cán bộ tài chính thể hiện rõ qua sự tận tụy, không kể ngày đêm, bám sát nguồn thu, trăn trở cùng đối tượng thu, đơn vị thụ hưởng sao cho thu đúng, thu đủ, chi kịp thời, đúng mục đích, có hiệu quả. Hàng trăm đơn vị, hàng nghìn cá nhân trong Ngành đã được nhận các phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội.
Từ thực tế những gì đã làm, đã làm được, từ những thành tựu của 70 năm qua, đặc biệt là của 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước (từ 1991- 2000) và cả những việc làm chưa thành công, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quan trọng về hoạt động và công tác của ngành Tài chính, trong đó, tôi cho rằng bài học đầu tiên và quan trọng nhất chính là phải luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, về độc lập dân tộc và CNXH, luôn bám sát và kiên trì chủ trương của Đảng, của Nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế, tài chính.
Thực tế đã chỉ rõ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước là thiết lập và vận hành ở Việt Nam nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Bám sát chủ trương này, mọi chính sách tài chính, mọi việc làm của ngành Tài chính đã và sẽ phục vụ tốt nhất cho chính sách kinh tế trong tiến trình đổi mới, huy động tốt nhất mọi tiềm năng trong cả nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động nguồn lực từ bên ngoài mang lại cho nền kinh tế nước ta sự phát triển, năng động mới.
Ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành Tài chính càng thêm tự hào và phấn khởi nhìn đến tương lai, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước và nhân dân giao cho.
Nguyên Thứ trưởng Phạm Thị Mai Cương (giữa), nguyên Thứ trưởng Phan Văn Dĩnh (thứ 2 từ phải sang), Thứ trưởng Trương Chí Trung (ngoài cùng bên trái) và các đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu toàn quốc nữ công chức ngành Thuế Nhà nước lần thứ nhất (năm 2002)
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng và nguyên Bộ trưởng Hoàng Anh (giữa), nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy (thứ 2 từ phải sang) cùng một số cán bộ cơ quan Bộ Tài chính (năm 2002)
Thứ trưởng Trần Văn Tá (thứ 3 từ trái sang), Thứ trưởng Vũ Mộng Giao (thứ 4 từ phải sang) và các đại biểu tại Lễ kỷ niệm 45 năm thành lập Vụ Chế độ Kế toán (năm 2002)
Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và các đồng chí lãnh đạo Bộ Tài chính qua các thời kỳ tại lễ kỷ niệm Ngày Truyền thống Văn phòng cơ quan hành chính nhà nước 28/8 (năm 2004)
Nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và các đồng chí lãnh đạo Bộ, nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính, nguyên lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ tại Tọa đàm Lịch sử 60 năm thành lập và phát triển ngành Tài chính Việt Nam (năm 2005)
Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy (thứ 6 từ trái sang) và các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính tại Đại hội điển hình tiên tiến và Kỷ niệm 15 năm thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước (năm 2005)
Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, nguyên Bộ trưởng Hoàng Anh, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và một số đồng chí nguyên thứ trưởng, thứ trưởng Bộ Tài chính cùng một số cán bộ công chức Bộ Tài chính chụp ảnh lưu niệm (năm 2007)
Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng trao tặng các phần thưởng cao quý của Nhà nước cho các đồng chí nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính và lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ qua các thời kỳ (tháng 8/2010)
Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế tại lễ cắt băng khánh thành Phòng Truyền thống ngành Tài chính (tháng 8/2010)