Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng: Vượt qua những thách thức
Chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững của Đảng và Nhà nước đề ra đã được triển khai quyết liệt trong những năm vừa qua. Quá trình thực hiện chủ trương này đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề cần phải quyết liệt thực hiện trong thời gian tới.
Kết quả tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011 - 2016
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1/2011) đã thông qua chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp (DN) và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, DN và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức...
Chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững đã được triển khai quyết liệt trong những năm vừa qua. Về nội dung tái cơ cấu, 3 lĩnh vực trọng tâm được xác định bao gồm tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Do tầm quan trọng đặc biệt của nội dung tái cơ cấu kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu các bộ/ngành, địa phương và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải xây dựng chương trình hành động triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN vào tháng 7/2012.
Những kết quả đạt được
Chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững khi triển khai thực hiện tuy gặp phải nhiều thách thức, song theo đánh giá của Chính phủ, đã đạt được một số kết quả bước đầu, cụ thể:
Thứ nhất, môi trường kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, thuận lợi. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, lãi suất cơ bản ổn định; tăng trưởng kinh tế từng bước hồi phục; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo.
Thứ hai, việc thực hiện 3 trọng tâm tái cơ cấu của nền kinh tế đã đạt được một số kết quả bước đầu. Thể chế đầu tư công từng bước được hoàn thiện thông qua việc ban hành Luật Đầu tư công, sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng; hiệu quả đầu tư bước đầu được cải thiện. Tái cơ cấu DNNN từng bước được thực hiện, tập trung trước hết vào cổ phần hóa, cải thiện quản trị DN và hạn chế tình trạng đầu tư ngoài ngành chính của các DN. Thị trường tài chính dần đi vào ổn định, an toàn, thanh khoản được đảm bảo, lãi suất cho vay trung bình giảm.
Thứ ba, tái cơ cấu các ngành kinh tế đã đạt được một số thay đổi về chuyển dịch tỷ trọng các ngành: Tái cơ cấu nông nghiệp được tiến hành theo 3 hướng: Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức lại sản xuất và phát triển xúc tiến thương mại bước đầu đạt kết quả tích cực; Tái cơ cấu công nghiệp đã tạo ra được sự thay đổi tích cực trong cơ cấu nội bộ ngành theo hướng gia tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tái cơ cấu ngành dịch vụ được triển khai tích cực theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, tái cơ cấu vùng kinh tế được chú trọng thực hiện: Các quy hoạch vùng được rà soát, bổ sung (quy hoạch 6 vùng kinh tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm). Tập trung đầu tư vào 5 vùng kinh tế ven biển, 8 vùng kinh tế cửa khẩu giai đoạn 2011 – 2015. Một số sáng kiến liên kết kinh tế vùng đã được triển khai.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng theo hướng tự do hơn, thuận lợi hơn, kinh tế thị trường hơn, từng bước đa dạng hóa đối tác, đa dạng hóa thị trường và đa dạng hóa sản phẩm.
Một số hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình tái cơ cấu kinh tế vẫn còn không ít hạn chế.
Thứ nhất, tái cơ cấu kinh tế chưa tác động đáng kể đến thay đổi mô hình tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả chưa đạt mục tiêu đề ra.
Thứ hai, môi trường vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc: Cân đối lớn của nền kinh tế chưa thật sự bền vững, xử lý nợ xấu chưa thực chất, cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) còn hết sức khó khăn, thâm hụt lớn và kéo dài, nợ công tăng nhanh...
Thứ ba, việc thực hiện 3 trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế chưa đạt được mục tiêu đề ra: (i) Cơ cấu đầu tư chậm thay đổi, tình trạng lãng phí, thất thoát còn phức tạp và hiệu quả đầu tư còn thấp so với yêu cầu; (ii) Tái cơ cấu DN tiến triển chậm và thiếu thực chất, cổ phần hóa DNNN chưa gắn chặt với tái cơ cấu và đa dạng hóa sở hữu, vai trò trực tiếp kinh doanh của Nhà nước vẫn còn lớn so với thông lệ quốc tế trong nhiều ngành, lĩnh vực; (iii) Tái cơ cấu hệ thống tài chính còn nhiều vướng mắc, thay đổi về cơ cấu thị trường diễn ra chậm. Một số yếu kém có tính hệ thống và dài hạn chưa được giải quyết cơ bản, nợ xấu, sở hữu chéo và quản trị ngân hàng chưa được giải quyết một cách thực chất.
Thứ tư, thực hiện tái cơ cấu các ngành kinh tế chưa tạo ra được sự thay đổi tích cực đủ lớn trong cơ cấu kinh tế giữa các ngành, nội ngành: Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới tiến triển chậm so với yêu cầu hội nhập và thích nghi với biến đổi khí hậu. Tái cơ cấu công nghiệp và dịch vụ chưa thay đổi cơ bản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu vùng kinh tế chưa đi vào thực chất, chưa tuân thủ các nguyên tắc thị trường trong liên kết vùng: Không gian phát triển còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa phương và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng.
Các hạn chế của quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong thời gian qua được xác định là bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu như: Chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển; Tổ chức thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế còn thiếu hiệu lực và đồng bộ; Tái cơ cấu nền kinh tế chưa gắn kết với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; Năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế còn hạn chế và vai trò giám sát các tổ chức chính trị - xã hội và người dân đối với tái cơ cấu nền kinh tế còn chưa được phát huy đầy đủ…
Các mục tiêu cần đạt được đến năm 2020
Bối cảnh phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 có nhiều đổi khác so với giai đoạn trước đây. Hội nhập đã chuyển sang một giai đoạn mới về chất. Việt Nam đã hoàn thành đàm phán và đi vào thực thi hàng loạt Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vì thế, Việt Nam phải thay đổi căn bản thực lực của mình tận dụng cơ hội trong hội nhập để vươn lên. Nghĩa là Việt Nam phải ráo riết tái cơ cấu kinh tế nhưng là tái cơ cấu theo hướng hội nhập hiện đại, bảo đảm tuân thủ các cam kết hội nhập.
Trong bối cảnh đó, chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII. Ngày 8/11/2016, tại kỳ họp thứ hai, khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Kế hoạch được đánh giá là bước tiếp tục hoàn thiện những công việc chưa làm xong trong giai đoạn 2011 - 2016 và là bước triển khai cụ thể Nghị quyết Đại hội Đảng xoay quanh nội dung tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã nêu rõ các mục tiêu cụ thể cần đạt được gồm: Giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN, đến năm 2020 xuống dưới 3,5% GDP; Quy mô nợ công hằng năm giai đoạn 2016-2020 không quá 65% GDP; nợ Chính phủ không quá 54% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; Nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức chất lượng tiếp cận 04 nước ASEAN phát triển nhất (ASEAN–4); Tỷ trọng đầu tư nhà nước khoảng 31 - 34% tổng đầu tư xã hội.
Bên cạnh đó, phấn đấu hằng năm có 30-35% DN có hoạt động đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hàng năm trên 5,5%, tốc độ tăng năng suất nội ngành đóng góp hơn 60% vào tăng năng suất lao động năm 2020. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 30-35%. Thu hẹp khoảng cách năng lực cạnh tranh quốc gia với ASEAN-4.
Đến năm 2020, tỷ lệ nợ xấu thực tế trong nền kinh tế giảm xuống mức dưới 3%; Giảm lãi suất cho vay trung bình trong nước có tính cạnh tranh so với mức lãi suất cho vay trung bình trong nhóm ASEAN-4; Phấn đấu nâng cao quy mô và hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu chính phủ, thị trường trái phiếu DN; Đến năm 2020, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP, thị trường trái phiếu đạt 30% GDP.
Ngoài ra, thoái toàn bộ vốn nhà nước tại các DN thuộc các ngành không cần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn, thoái vốn nhà nước xuống mức sàn quy định đối với các ngành mà Nhà nước sắp xếp, cơ cấu lại vốn đầu tư; Đến năm 2020, có ít nhất 1 triệu DN; 15.000 hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Quốc hội yêu cầu cần tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm, đó là: (i) Tập trung hoàn thành cơ cấu lại 3 trọng tâm gồm cơ cấu lại đầu tư công, DNNN và các tổ chức tín dụng; (ii) Cơ cấu lại NSNN, khu vực công; (iii) Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; (iv) Hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; (v) Hình thành đồng bộ và phát triển các loại thị trường.
Giải pháp tái cơ cấu kinh tế đặt ra trong năm 2017-2018
Trong thời gian tới, có thể thấy, Việt Nam có một số thuận lợi và cơ hội đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu kinh tế. Đặc biệt có thể kể đến là yếu tố cam kết chính trị. Nhiều mục tiêu, nội dung tái cơ cấu nền kinh tế và cải cách thể chế kinh tế được Đảng và Chính phủ đặt ra đã tạo sức ép rất lớn để đẩy nhanh thực hiện các cam kết hội nhập và lộ trình tái cơ cấu. Tuy nhiên, trước mắt, một số nhiệm vụ cần ưu tiên thực hiện ngay trong giai đoạn 2017 - 2018, cụ thể như:
Một là, kiên quyết xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, lành mạnh hóa thị trường tài chính, áp dụng các biện pháp phá sản đối với các ngân hàng thương mại yếu kém.
Hai là, kiên quyết cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các DN một các cách thực chất theo lộ trình và kế hoạch đã được phê duyệt. Tái cơ cấu danh mục vốn đầu tư và tài sản của khu vực nhà nước, trước hết là DNNN; chuyển tài sản thương mại và cơ hội kinh doanh cho khu vực tư nhân, vốn đầu tư thu được đầu tư phát triển hạ tầng và các chức năng khác của Nhà nước;
Ba là, hoàn thiện thể chế đầu tư công, nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu tư công. Đổi mới cơ chế quản lý và phân bổ đầu tư công theo nguyên tắc cạnh tranh, trên cơ sở lĩnh vực ưu tiên đầu tư và các đề xuất dự án tốt, khả thi qua đó giảm xin - cho trong phân bổ đầu tư công.
Bốn là, thực hiện nghiêm Luật NSNN, quản lý chặt chẽ thu chi NSNN.
Năm là, tái cơ cấu các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và chịu áp lực cạnh tranh thị trường. Trao quyền tự chủ đẩy đủ cho các tổ chức, đơn vị sự nghiệp công, để họ hoạt động theo cơ chế thị trường, đồng thời tự do hóa, thị trường hóa dịch vụ công, mở cửa cho tư nhân tham gia.
Sáu là, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ phát triển DN tư nhân ở cả cấp Trung ương và địa phương. Tập trung tái cơ cấu phát triển các ngành ưu tiên, nòng cốt là các DN tư nhân trong nước, giữ vai trò dẫn dắt và thực hiện quá trình tái cơ cấu ngành kinh tế.
Bảy là, tái cơ cấu các thị trường nhân tố sản xuất quan trọng bao gồm thị trường quyền sử dụng đất, thị trường nhân lực và thị trường khoa học và công nghệ.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 339/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19/02/2013 về phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020;
2. Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 28/11/2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020;
3. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.