Dự thảo nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi 3 luật thuế:
Tháo gỡ nhiều khó khăn cho doanh nghiệp
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT), Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Luật Quản lý thuế (Luật số 106/2016/QH13) có nhiều quy định tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Để luật sớm có hiệu lực, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của luật và sửa đổi, bổ sung một số điều tại các nghị định.
Nhiều sản phẩm, dịch vụ không chịu thuế GTGT
Luật số 106 thể hiện các quy định nhằm đơn giản công tác quản lý thuế, tăng tính khả thi trong tuân thủ, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam một cách hợp pháp trong bối cảnh hội nhập sâu hơn từ năm 2018.
Thực hiện nguyên tắc đối xử công bằng trong việc tính thuế GTGT giữa hàng nông sản nhập khẩu và hàng nông sản được sản xuất trong nước, bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, Luật 106 đã bổ sung thêm nội dung nhằm tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, ngăn chặn việc lợi dụng để hoàn thuế đối với nông sản xuất khẩu.
Theo đó: Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra ở khâu nhập khẩu thì không chịu thuế GTGT. Tại khâu kinh doanh tiếp theo, các doanh nghiệp, hợp tác xã nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có mua sản phẩm này để bán cho đơn vị khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Với quy định này, các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh hàng nông sản trong thị trường nội địa sẽ vừa tiết kiệm được chi phí tài chính do không phải bỏ tiền nộp thuế trước đối với hàng nông sản khi mua vào hoặc nhập khẩu; đồng thời bảo đảm được quyền khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí trong khâu lưu thông có đóng góp làm tăng giá trị của hàng hóa nông sản như chi phí đóng gói, xử lý, bảo quản, vận tải, quản lý…
Bên cạnh đó, dự thảo mở rộng diện đối tượng không chịu thuế GTGT đối với các hoạt động dịch vụ mang tính bảo trợ, an sinh xã hội, như: Bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật cũng thuộc diện không chịu thuế GTGT để người cao tuổi, người khuyết tật có cơ hội thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dưỡng lão với mức giá hợp lý.
Ấn định thuế TTĐB nếu không theo giá thị trường
Bộ Tài chính cho biết, (Khoản 1 Điều 2) Luật số 106 quy định: Giá hàng hóa sản xuất trong nước, hàng hóa nhập khẩu là giá do cơ sở sản xuất, (hoặc) nhập khẩu bán ra. Theo quy định của Luật Quản lý thuế, cơ quan thuế sẽ ấn định thuế trong trường hợp giá giao dịch không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường. Để đảm bảo công bằng trong xác định giá tính thuế TTĐB và bảo đảm quyền thu thuế của Nhà nước, Bộ Tài chính trình Chính phủ bổ sung quy định giá tính thuế TTĐB của cơ sở bán ra phải theo giá giao dịch thông thường trên thị trường. Trường hợp giá tính thuế TTĐB không theo giá giao dịch thông thường thì cơ quan thuế sẽ thực hiện ấn định thuế.
Ngoài ra, để tránh trường hợp người nộp thuế thành lập nhiều cơ sở kinh doanh thương mại (là công ty con hoặc công ty có mối quan hệ liên kết) sau đó bán hàng cho cơ sở kinh doanh thương mại độc lập nhằm giảm giá tính thuế TTĐB và giảm nghĩa vụ thuế phải nộp cho NSNN, Bộ Tài chính đề nghị bổ sung quy định giá để so sánh giá tính thuế TTĐB là giá của cơ sở thương mại có mối quan hệ mẹ - con hoặc liên kết bán cho cơ sở kinh doanh thương mại độc lập (không có quan hệ công ty mẹ - con hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ hoặc có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, nhập khẩu).
Cụ thể, theo dự thảo nghị định, đối với hàng hóa sản xuất trong nước, hàng hóa nhập khẩu giá là do cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán ra. Trường hợp giá bán của cơ sở không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường thì cơ quan thuế thực hiện ấn định thuế, theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Trường hợp cơ sở sản xuất, nhập khẩu hàng hóa chịu thuế TTĐB bán hàng qua các cơ sở trực thuộc hạch toán phụ thuộc thì giá tính thuế là giá do cơ sở hạch toán phụ thuộc bán ra. Cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán hàng thông qua đại lý bán đúng giá (do cơ sở đó) quy định và chỉ hưởng hoa hồng thì giá tính thuế là giá do cơ sở quy định chưa trừ hoa hồng.
Trường hợp hàng hóa chịu thuế TTĐB được bán cho các cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có quan hệ công ty mẹ - con hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở sản xuất, nhập khẩu hoặc cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có mối quan hệ liên kết thì giá tính thuế TTĐB không được thấp hơn mức tỷ lệ (%) so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại mua trực tiếp của đơn vị sản xuất, nhập khẩu bán ra.
Trường hợp cơ sở sản xuất, nhập khẩu thành lập nhiều cơ sở thương mại trung gian có quan hệ công ty mẹ - con hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ hoặc có mối quan hệ liên kết thì giá tính thuế TTĐB không được thấp hơn mức tỷ lệ (%) so với giá bình quân của các cơ sở thương mại bán cho cơ sở kinh doanh thương mại không có quan hệ công ty mẹ, công ty con, hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ, hoặc có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, nhập khẩu.