Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cần cách tiếp cận mới

TS. Phạm Việt Dũng

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thập niên qua đã tăng gấp 10 lần, nhưng hiệu ứng lan tỏa và giá trị gia tăng mang lại còn nhiều hạn chế. Để tăng cường thu hút và cải thiện chất lượng dòng vốn đầu tư này, cần có tư duy và cách làm mới.

Vai trò không nhỏ của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Việt Nam bắt đầu thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ năm 1997. Đến năm 2006, bắt đầu làn sóng các nhà đầu tư lớn, đầu tiên là Tập đoàn Intel (Mỹ) với vốn đăng ký dự án là 1 tỷ USD tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tính đến tháng 6/2018, tổng vốn FDI đăng ký đạt 331,2 tỷ USD với trên 24 nghìn dự án, vốn giải ngân lũy kế khoảng 180,7 tỷ USD. Khu vực FDI đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 20% GDP, trong đó 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, đóng góp 71% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Trong 4 năm, dòng vốn này đã tăng gần gấp đôi, từ 20 tỷ USD (năm 2014) lên mức gần 36 tỷ USD (năm 2017). Trong 2 năm gần đây, dòng FDI vào Việt Nam chỉ đứng sau Xin-ga-po trong khu vực ASEAN. Còn nếu tính theo tỷ lệ % trên GDP, dòng FDI vào Việt Nam cao hơn cả Trung Quốc, Ấn Độ,...

Hiện có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Xin-ga-po và Đài Loan (Trung Quốc). Việt Nam đã trở thành “cứ điểm sản xuất” của rất nhiều tập đoàn lớn trên thế giới.

Có thể kể đến một số ví dụ điển hình, như Samsung có số vốn đăng ký lên tới 17 tỷ USD, hiện 50% sản lượng điện thoại toàn cầu của Samsung được sản xuất tại Việt Nam; Fomorsa với gần 10 tỷ USD; LG - 3 tỷ USD,... Việt Nam cũng là trung tâm toàn cầu sản xuất tua-bin của General Electric (GE) và là một trong ba trung tâm sản xuất toàn cầu của Intel,...

Vai trò rõ nhất của FDI là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đóng góp vào thu ngân sách nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, FDI còn giúp Việt Nam đa dạng hóa cơ cấu sản xuất, tạo sự lan tỏa về công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại, góp phần đưa Việt Nam tham gia nhiều công đoạn của chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Hiện, tỷ lệ giá trị xuất khẩu của các mặt hàng sản xuất chế tạo thuộc nhóm công nghệ vừa và cao của Việt Nam đã tăng mạnh, từ 16% (năm 2000) lên 42% (năm 2014). Tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa trong giá trị xuất khẩu của nhóm này cũng tăng từ 10% lên 26% trong cùng kỳ.

Bên cạnh đó, sự có mặt của các doanh nghiệp FDI cũng là động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trong ứng dụng, phát triển công nghệ, đổi mới quản trị kinh doanh, nâng cao năng suất lao động.

Còn nhiều hạn chế, bất cập

Mặc dù FDI có nhiều đóng góp, như tạo ra phương thức thu hút đầu tư lớn, góp phần quan trọng vào xuất khẩu, vào ngân sách, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ,... song đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự bứt phá trong xu thế thu hút, sử dụng FDI, trong khi những mục tiêu về nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, phát huy lan tỏa đến phát triển khu vực kinh tế trong nước chưa được như kỳ vọng. Bên cạnh đó, khu vực này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập thể hiện ở những mặt sau:

Liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp cung ứng trong nước còn yếu. Các dự án FDI vẫn chủ yếu là lắp ráp, gia công, tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam chưa cao. Đặc biệt, FDI chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam để cùng tham gia chuỗi giá trị, chưa thúc đẩy được ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), các doanh nghiệp Nhật Bản chỉ tìm được 32% số nhà cung cấp mà họ cần tại Việt Nam. Trong khi, tỷ lệ này ở Trung Quốc là 65%; Thái Lan: 55%; In-đô-nê-xi-a: 40%.

Trong tổng số nguyên liệu đầu vào cung cấp tại Việt Nam, thì chỉ có 13% được cung cấp bởi các doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ nội địa hóa thấp dẫn đến giá trị gia tăng thấp, mặc dù khu vực này đóng góp nhiều cho xuất khẩu nhưng phải nhập khẩu rất nhiều.

Công nghệ lạc hậu, việc chuyển giao công nghệ không được như kỳ vọng. Hiện, công nghệ mà các doanh nghiệp FDI đưa sang chủ yếu vẫn là công nghệ ở mức trung bình, chiếm khoảng 80% số lượng công nghệ được chuyển giao, còn lại khoảng 14% là công nghệ lạc hậu và chỉ có 6% là công nghệ cao.

Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2016, hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI của Việt Nam ở mức độ rất thấp và có xu hướng ngày càng bị tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực. Nếu như năm 2009, Việt Nam đứng thứ 57 trên toàn cầu về tiêu chí này thì đến năm 2014, con số này đã tụt xuống vị trí thứ 103. Năm 2018, vị trí này tăng lên thứ 89 nhưng vẫn còn thấp và thua xa nhiều nước trong khu vực.

Với hạn chế trong chuyển giao công nghệ nên các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các nhà “gia công” cho các doanh nghiệp FDI. Hệ quả là giá trị gia tăng tạo ra rất thấp, dẫn đến các doanh nghiệp này lại có rất ít khả năng cải tiến công nghệ, nâng cấp sản phẩm, chủ động tham gia chuỗi cung ứng hay được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa của các doanh nghiệp FDI.

Tác động đến chất lượng nguồn nhân lực không nhiều. Hầu như không có doanh nghiệp nào mà tỷ lệ lao động có trình độ kỹ thuật cao hay chuỗi cung ứng địa phương có năng lực cạnh tranh là thế mạnh của Việt Nam. Trong khi đó, những công ty nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc, Thái Lan hay Phi-líp-pin đều cho biết những quốc gia này lao động có tay nghề cao hơn và chuỗi cung ứng tốt hơn hẳn Việt Nam.

Theo thống kê, mặc dù sản phẩm công nghệ cao chủ yếu đến từ khu vực FDI, với 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng đa số lao động tại các doanh nghiệp này không có trình độ, thời gian được đào tạo một vài tuần và đảm nhận công việc giản đơn trong bộ phận dây chuyền.

Xuất hiện các vấn đề về lao động, việc làm. Mặc dù khu vực doanh nghiệp có vốn FDI đang tạo việc làm cho gần 10 triệu lao động nhưng một tình trạng khá phổ biến diễn ra ở nhiều doanh nghiệp FDI là việc sa thải người lao động trên 35 tuổi... Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy, nhất là vấn đề an sinh xã hội, vấn đề tìm kiếm, bố trí việc làm mới cho người lao động, ngoài ra còn tạo tâm lý bất an và các vấn đề tiêu cực khác.

Ảnh hưởng đến môi trường. Nhiều dự án FDI không tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường, dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường, như gia tăng ô nhiễm, xói mòn và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên.

Nguồn: Báo cáo WEF năm 2018.
Nguồn: Báo cáo WEF năm 2018.

Thất thu thuế. Để chạy đua về số lượng FDI, việc các địa phương và ngay cả Chính phủ nhiều khi đã “trải thảm đỏ” quá mức với những ưu đãi về thuế, giá thuê đất, giá điện,... đã bóp méo thị trường cạnh tranh, tạo bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, chưa kể còn có tình trạng một bộ phận doanh nghiệp FDI chuyển giá, trốn thuế VAT, khai thấp lợi nhuận để trốn thuế doanh nghiệp.

Số liệu thống kê cho thấy, mặc dù tạo ra lợi nhuận lớn nhất, nhưng các doanh nghiệp FDI lại có tỷ lệ đóng góp ít nhất vào ngân sách, chỉ 250,9 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 16,9%/năm trong giai đoạn 2010 - 2016, thấp hơn đáng kể so với 434,7 nghìn tỷ đồng của khu vực tư nhân và 277,3 nghìn tỷ đồng của khu vực nhà nước.

Như vậy, sau 30 năm Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, việc thu hút và quản lý nguồn vốn FDI đang đặt ra nhiều vấn đề. Hiện trạng này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh chính sách để vừa nâng cao hiệu quả thu hút FDI, vừa tạo ra những doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn, có thể cạnh tranh ngang sức với các doanh nghiệp bên ngoài.

Cần có tư duy và cách làm mới

Trong thời đại ngày nay, sự dịch chuyển của các dòng vốn diễn ra rất nhanh chóng, nhất là sau một sự kiện bất thường về chính trị trong khu vực, an ninh xã hội hay khủng hoảng kinh tế. Ngoài ra, dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0, với việc sử dụng rô-bốt trong sản xuất ở nhiều nước phát triển hiện nay thì yếu tố lao động giá rẻ của chúng ta đang mất dần lợi thế.

Chưa kể, với việc máy móc thay thế con người toàn diện hơn thì nhiều ngành sản xuất sẽ quay về các nước phát triển. Vì vậy, nền kinh tế độc lập tự chủ với thể chế hoàn thiện và năng lực sáng tạo của người dân, doanh nghiệp trong nước mới là cái gốc vững bền của nền kinh tế.

Đối với nguồn vốn FDI, cần có cách tiếp cận mới trong xây dựng một chiến lược thu hút đầu tư. Thứ nhất, việc thu hút vốn FDI phải hỗ trợ nâng cấp công nghiệp và giúp các doanh nghiệp nội hội nhập vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, đồng thời phải giảm dần sự phụ thuộc vào dòng vốn này(1). Sự phụ thuộc này sẽ làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân trong nước, đồng thời còn đặt nền kinh tế Việt Nam đối mặt với những rủi ro trước những biến động của kinh tế toàn cầu. 

Thứ hai, với việc độ mở của nền kinh tế Việt Nam đã khá cao và sự tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, cần tư duy để Việt Nam trở thành một “đặc khu” trong chiến lược thu hút vốn FDI. Từ đó sẽ có những chính sách nhất quán, thông minh và hiệu quả.

Kinh nghiệm của những quốc gia đi trước cho thấy, FDI chỉ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở những nước có sự chuẩn bị và khả năng hấp thụ những chuyển giao công nghệ. Để hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ, cần có chiến lược dài hơi, có sự chung tay của cả doanh nghiệp và Chính phủ. Về phía Chính phủ, cần có những quy định chặt chẽ đối với các doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào Việt Nam trong việc chuyển giao công nghệ.

Bên cạnh đó, cần có chính sách phát triển khoa học - công nghệ trong nước, thu hút nguồn nhân lực vào lĩnh vực này. Có chính sách khuyến khích đối tác FDI liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong nước.

Kinh nghiệm của Trung Quốc và nhiều nước đi trước cho thấy, các dự án liên doanh thường có hiệu quả về chuyển giao công nghệ cao hơn so với các dự án 100% vốn nước ngoài. Cùng với đó, cần yêu cầu và khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Việt Nam.

Những hoạt động này sẽ tác động tích cực đến quá trình chuyển giao công nghệ. Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực nâng cao năng lực bản thân về tất cả các mặt, từ máy móc đến công nghệ và năng lực của đội ngũ cán bộ. Chỉ khi đó các doanh nghiệp FDI mới tìm đến đặt hàng và hỗ trợ hoàn thiện quy trình sản xuất đáp ứng yêu cầu của họ.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả thu hút vốn FDI, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

1- Đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, chuyển từ thụ động sang chủ động, cùng với đó, có chiến lược thu hút phục vụ từng lĩnh vực rõ ràng. Cần chủ động ưu tiên xúc tiến đầu tư nhất và FDI mang lại nhiều giá trị gia tăng nhất, như chế tạo chế biến, dịch vụ - logistics, nông nghiệp, du lịch, giáo dục - y tế. Dù vậy, những ngành then chốt khác, như dệt may, da giày, quần áo, dịch vụ gia công thuê ngoài, chế biến sơ cấp kim loại, khoáng chất vẫn sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng.

2- Tập trung thu hút có trọng tâm, kết hợp với phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để có thể tận dụng tối đa sự lan tỏa về mặt công nghệ theo chiều dọc thay vì thu hút dàn trải. Trong nhiều năm, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương luôn “trải thảm đỏ” chào mời các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp nổi tiếng và các dự án siêu lớn bởi chính sách ưu đãi “hậu hĩnh”, trong khi chúng ta chưa chú trọng với các dự án vừa và nhỏ trong các ngành hỗ trợ.

Vì vậy, cần sửa đổi toàn diện khung chính sách ưu đãi hiện hành theo hướng đổi mới tư duy từ quan điểm hào phóng, lãng phí, đua nhau ưu đãi bằng cách giảm chi phí sang quan điểm cạnh tranh dựa trên những lợi thế riêng, các tài sản chiến lược, thế mạnh của Việt Nam.

3- Có chính sách cụ thể tăng cường sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI với các nhà cung cấp trong nước. Các chính sách bao gồm việc xây dựng cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp FDI, các nhà cung cấp, các dịch vụ kết nối, các chương trình xúc tiến đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có chính sách ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước.

4- Mở cửa các lĩnh vực quan trọng trên cơ sở xem xét lại một cách có hệ thống các hạn chế pháp lý và các rào cản về thủ tục đối với thu hút FDI trong các lĩnh vực ưu tiên. Điều chỉnh theo hướng nới lỏng sở hữu và vốn của nhà đầu tư nước ngoài đối với những lĩnh vực chủ chốt cần phát triển, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư.

5- Cải cách thể chế, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng chính phủ điện tử, tăng tính hiệu quả và minh bạch. Trong quá trình hoạch định các chính sách, bên cạnh việc chú trọng đến chỉ tiêu tăng trưởng GDP (Gross Domestic Products - sản phẩm được làm ra trên lãnh thổ Việt Nam) cần chú trọng đến chỉ tiêu GNP (Gross National Products - sản phẩm được tạo ra bởi chính người Việt Nam). Trên thực tế hiện nay ở nước ta, GNP thường thấp hơn GDP từ 10 đến 15 tỷ USD hằng năm chủ yếu đến từ khu vực FDI./.

---------------------------------------------

(1) Năm 2017, xuất khẩu của khu vực FDI chiếm 71% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước và chiếm tới 60% tổng giá trị nhập khẩu. Trong khi nhập siêu từ các doanh nghiệp trong nước lên tới 23 tỷ USD thì khu vực FDI xuất siêu gần 26 tỷ USD