Thúc đẩy doanh nghiệp logistic phát triển trên địa bàn TP. Hà Nội

Trần Thị Thu Nhung - Học viện Tài chính

Việc đầu tư công nghệ, phát triển hạ tầng, liên kết tạo thành mạng lưới các doanh nghiệp logistics lớn là vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới để thúc đẩy lĩnh vực này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Hà Nội cũng như cả nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thời gian qua, dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, nhưng ngành Logistics Việt Nam vẫn có những bước tiến đáng kể, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 14-16%/năm. Đặc biệt, ngành Logistics đã khẳng định vai trò là dịch vụ trọng yếu của nền kinh tế khi duy trì chuỗi cung ứng hàng hóa, nguyên, nhiên liệu, đặc biệt là đóng góp cho tăng trưởng xuất, nhập khẩu cả nước, với tổng kim ngạch đạt kỷ lục gần 670 tỷ USD trong năm 2021.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, kim ngạch xuất khẩu và thương mại nội địa liên tục tăng trưởng thì việc phát triển ngành Logistics có vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, việc đầu tư công nghệ, phát triển hạ tầng, liên kết tạo thành mạng lưới các doanh nghiệp logistics lớn là vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới để thúc đẩy lĩnh vực này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Hà Nội cũng như cả nước.

Đặt vấn đề

Theo Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng di chuyển và lưu kho những nguyên vật liệu thô của hàng hóa trong quy trình, những hàng hóa thành phẩm và những thông tin liên quan từ khâu mua sắm nguyên vật liệu đến khi được tiêu dùng, nhằm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng”.

Có thể hiểu, Logistics là chuỗi nhiều hoạt động xoay quanh hàng hóa như: Đóng gói, bao bì, lưu trữ hàng hóa, kho bãi, bảo quản, vận chuyển hàng hóa… Các doanh nghiệp (DN) có thể tiết kiệm được đáng kể khoản chi phí vận chuyển, tránh việc “đội giá” sản phẩm và tăng mức lợi nhuận thu được nếu thực thi hoạt động logistics hiệu quả.

Trong lịch sử nhân loại, ban đầu logistics được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, nó là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội. Sau này thuật ngữ logistics dần được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, được lan truyền từ nước này sang nước khác, hình thành nên logistics toàn cầu. Logistics phát triển rất nhanh chóng, cho đến nay logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các DN trong khu vực sản xuất và khu vực dịch vụ. Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những thành phố lớn của các nước phát triển như: Nhật Bản và Mỹ, logistics đóng góp khoảng 10% GDP.

Theo Hiệp hội DN logistics Việt Nam, hiện nay 90% các doanh nghiệp logistics đang hoạt động là doanh nghiệp Việt Nam, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài. Trong báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2021 công bố ngày 28/4/2022, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 336,310 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020.

Trong đó, 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu bao gồm: TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bình Dương, Thái Nguyên, Hải Phòng, Đồng Nai, Bắc Giang, Hà Nội, Hải Dương, Phú Thọ. Thủ đô Hà Nội đứng ở vị trí thứ 8 (tụt 1 bậc so với năm 2020, xếp sau Bắc Giang) của cả nước, đạt 15,5 tỷ USD nhưng cũng chỉ tăng 2,2% so với năm 2020. Có được những kết quả trên không thể không kể đến vai trò của logistic.

Thực trạng doanh nghiệp logistic tại TP. Hà Nội

Tại TP.  Hà Nội, dịch vụ logistics chiếm khoảng từ 10 - 15% GDP. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Theo thống kê, trên địa bàn TP. Hà Nội hiện có khoảng 25.000 DN đăng ký hoạt động logistics. Trong số này, doanh nghiệp tư nhân chiếm đến 80%, song chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường, do phần lớn đều có quy mô nhỏ, hạn chế về vốn, công nghệ và nhân lực. Cụ thể:

Về quy mô

Hầu như các doanh nghiệp logistics trên địa bàn Hà Nội có quy mô còn hạn chế chỉ khoảng từ 10-30 nhân viên và chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 80%, còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài có số lượng lao động tương đối lớn từ 100-300 nhân viên. Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường

Hầu như các doanh nghiệp logistics không có một nhà cung cấp dịch vụ logistics nào cung cấp được dịch vụ vận chuyển xuyên suốt trên toàn lãnh thổ Việt Nam kết nối với thị trường quốc tế với chi phí cạnh tranh, mà phải qua các nhà cung cấp dịch vụ của từng chặng, đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh đơn giản như làm thủ tục hải quan, cho thuê phương tiện vận tải, kho bãi... cho các công ty logistics có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có khoảng 10% các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong ngành giao nhận kho vận, logistics là thực sự cung cấp các dịch vụ logistics.

Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (liên doanh, 100% vốn nước ngoài) giành được khoảng 70% thị trường nhờ tính chuyên nghiệp, mạng lưới rộng khắp và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại như:  Kunhe Nagel, Schenker, Bikar, APL logistics, TNT logistics, NYK logistics,First Logistics Development Company... Việc dành thị phần logistics tại Việt Nam cũng làm cho các doanh nghiệp nhỏ tại Hà Nội gặp nhiều khó khăn trong việc dành các đơn hàng vận chuyển.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này có hoạt động kho bãi còn khá yếu do chưa đầu tư phát triển hệ thống kho bãi. Không nhiều công ty có các hoạt động giá trị gia tăng tại kho bao gồm các dịch vụ đóng gói, đóng kiện (Packing), đóng pallet (Palletizing)… mà chủ yếu mua bán cước tàu biển, cước máy bay, đại lý khai hải quan và dịch vụ xe tải, một số có thực hiện dịch vụ kho vận nhưng không nhiều.

Về ứng dụng công nghệ

Với bối cảnh xu hướng thị trường thay đổi bởi ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hầu hết doanh nghiệp đều phải linh hoạt đầu tư tìm hiểu về thị hiếu đối tượng khách hàng, tăng cường khâu phục vụ việc chăm sóc, hậu mãi… và xây dựng hành trình mua sắm, giao nhận phù hợp. Ứng dụng công nghệ logistics vào từng mắt xích trong quy trình quản lý, vận hành... sẽ hỗ trợ đơn vị vận chuyển giải quyết được những nỗi lo lớn cho người bán lẫn người mua trên hành trình mua bán.

Ứng dụng công nghệ tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn cho doanh nghiệp logistics bứt phá, nhất là thúc đẩy thị trường thương mại điện tử xuyên biên giới và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Hà Nội, các doanh nghiệp logistics đã ứng dụng công nghệ vào hành trình giao hàng giúp rút ngắn thời gian di chuyển cho shipper và tiết kiệm chi phí vận chuyển cho người mua với các giải pháp về AI (trí thông minh nhân tạo) và Machine Learning (học máy) đang được nhiều đơn vị vận chuyển ứng dụng, thiết lập nên những cung đường tối ưu và giao hàng nhanh chóng tới tay người nhận ở nhiều điểm khác nhau.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp tại Hà Nội còn nhiều hạn chế, chủ yếu đóng vai trò vệ tinh cho các công ty logistics nước ngoài hoặc là chi nhánh của các công ty logistics tại TP. Hồ Chí Minh, chỉ đảm nhận một số công đoạn trong chuỗi hoạt động logistics vốn là một quy trình hoàn chỉnh gồm toàn bộ các hoạt động liên quan tới cung ứng, vận chuyển, theo dõi sản xuất, kho bãi, hải quan, làm thủ tục phân phối.

Các dịch vụ phổ biến là dịch vụ giao nhận vận tải, kho bãi, khai báo hải quan, cho thuê phương tiện vận tải; chỉ một số ít doanh nghiệp cung cấp loại dịch vụ gia tăng. Do hầu hết các doanh nghiệp có hoạt động logistics tại TP. Hà Nội mới chỉ sử dụng các công cụ công nghệ thông tin cơ bản như điện thoại, tin nhắn SMS, thư điện tử, fax, website, mạng LAN, WAN. Đây là các công cụ đơn giản, dễ sử dụng, chi phí lắp đặt không cao. Bên cạnh các công cụ căn bản, logistics Hà Nội cũng sử dụng các công cụ hiện đại như: Trao đổi dữ liệu điện tử EDI (Electronic Data Interchange), công cụ về mã số, mã vạch, công nghệ nhận dạng bằng sóng radio RFID (Radio Frequency Identification), hệ thống quản trị doanh nghiệp tích hợp ERP (Enterprise - Resource - Planning)… nhưng rất hạn chế, chỉ ở một số doanh nghiệp lớn.

Bên cạnh các khó khăn về phía doanh nghiệp thì khó khăn khách quan cũng làm cho doanh nghiệp logistics tại Hà Nội kém phát triển hơn ở một số mặt. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp tham gia lĩnh vực logistics tại Hà Nội cho biết, dù đã có bước phát triển đáng kể nhưng điều kiện kinh doanh còn nhiều “điểm nghẽn” khiến chi phí tăng cao, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo đó, “điểm nghẽn” lớn nhất là ở hạ tầng logistics, hệ thống kho hàng, bến bãi trên địa bàn TP. Hà Nội vẫn còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết, thiếu chuyên dụng (như kho lạnh, kho bảo quản hàng hóa đặc biệt…); việc giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án phát triển trung tâm logistics gặp khó khăn.

Các cảng cạn (ICD) còn ít. Về kết nối các loại hình giao thông, các cảng cạn mới chỉ sử dụng đường bộ, chưa nối liền được với đường sắt và đường sông. Bên cạnh đó, cản trở lớn đối với phát triển dịch vụ logistics là vấn nạn ùn tắc giao thông, khổ đường hẹp, giới hạn tải trọng phương tiện… đã làm tăng chi phí của doanh nghiệp.

Năm 2022, nền kinh tế nói chung và ngành Logistics nói riêng tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và giá xăng dầu tăng cao… Do đó, ngành Logistics Việt Nam cần tập trung khắc phục những hạn chế, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường liên kết để phát triển. Việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp logistics và cắt giảm chi phí logistics là vấn đề sống còn để cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần quan tâm đào tạo nhân lực ngành logistics, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tối ưu hóa phương thức quản lý và vận hành logistics.

Một số giải pháp đề xuất

Để ngành Logistics Hà Nội phát triển mạnh mẽ, tận dụng tối đa các cơ hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp logistics cần bắt tay hợp tác, phát huy tính năng động, sáng tạo; xây dựng giải pháp, chiến lược trước mắt và lâu dài.

Theo Kế hoạch số 81/KH-UBND về việc phát triển dịch vụ logistics trên địa bàn TP. Hà Nội năm 2022, mục tiêu, phát triển hoạt động logistics nhằm thúc đẩy sản xuất, thương mại truyền thống, thương mại quốc tế và thương mại điện tử; phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ với kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, kết cấu hạ thông thương mại - dịch vụ văn minh, hiện đại, đưa Hà Nội trở thành một đầu mối logistics quan trọng của vùng, cả nước và khu vực. Đồng thời, thúc đẩy doanh nghiệp dịch vụ logistics đổi mới, sáng tạo, cung ứng chuỗi dịch vụ logistics ở mức độ 3, mức độ 4; hướng đến mức độ 5, logistics điện tử trên cơ sở phát triển thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiện đại, hiệu quả và chuyên nghiệp. Với những mục tiêu đó, Hà Nội đã có những chính sách và các hoạt động thiết thực để thúc đẩy logistic TP. Hà Nội phát triển. Vì vậy, Hà Nội cần đẩy mạnh đồng bộ một số giải pháp sau để thúc đẩy doanh nghiệp logistics phát triển hơn nữa, cụ thể:

Về phía Nhà nước và UBND TP. Hà Nội

Thứ nhất, TP. Hà Nội cần hoàn thiện cơ chế quản lý và phát triển hoạt động logistics, phát triển kết cấu hạ tầng nhằm tối ưu hóa chuỗi cung ứng dịch vụ logistics, ứng dụng công nghệ trong tối ưu hóa logistics chặng cuối, cải thiện môi trường đầu tư và hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ… Đồng thời, cần áp dụng đồng bộ và linh hoạt các công cụ và chính sách quản lý vĩ mô: Hạn định thời gian phương tiện ra - vào Thành phố; quy định kích cỡ, tải trọng phương tiện...

Thứ hai, đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, giải quyết các thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận tiện ở tất cả các khâu, trọng tâm là các lĩnh vực: Công thương, hải quan, thuế, giao thông vận tải. Xây dựng cơ chế phối hợp và tăng cường hợp tác giữa các cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan sở, ngành, chính quyền các cấp của thành phố trong việc triển khai các quy định pháp luật về quản lý và phát triển logistics; chú trọng hợp tác bảo đảm an ninh hàng hóa và phát triển nguồn nhân lực… phát triển hạ tầng dịch vụ logistics, cụ thể hóa quy hoạch các trung tâm logistics và cơ sở hạ tầng phục vụ dịch vụ logistics trên địa bàn.

Thứ ba, thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường và hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trong các khâu lưu thông, vận chuyển, phân phối, dự trữ hàng hóa; xử lý nghiêm minh và kịp thời các vi phạm theo đúng quy định pháp luật; thúc đẩy tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp logistics, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics trên địa bàn và trong cả nước, với các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế; khuyến khích, thu hút các nhà cung cấp dịch vụ logistics lớn trên thế giới và các doanh nghiệp trong nước đặt trụ sở, chi nhánh và văn phòng giao dịch tại Thành phố nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm điều hành logistics của khu vực miền Bắc. Đẩy mạnh hợp tác liên kết với các địa phương lân cận trong vùng Thủ đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các tỉnh, thành phố trong cả nước nhằm tạo thuận lợi cho sự giao lưu vận chuyển, phân phối hàng hóa của thành phố với các tỉnh, thành phố khác...

Thứ tư, TP. Hà Nội cần tạo sự liên kết giữa các thành tố trong chuỗi cung ứng, như: Hải quan, cảng, hãng vận tải đường bộ, hãng tàu… giúp giảm thời gian giao nhận hàng. Áp dụng công cụ quản lý mới, cải thiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Các cơ quan quản lý phải coi logistics là ngành công nghiệp hỗ trợ để có chính sách hỗ trợ phù hợp; thủ tục cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài được thuận lợi. Cùng đó, Chính phủ tiếp tục hiện đại hoá quá trình quản lý trong lĩnh vực logistics. Cho phép doanh nghiệp gia công đóng gói, dán nhãn hàng hóa tại kho ngoại quan.

Về phía doanh nghiệp

Một là, nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam; tính liên kết của các yếu tố trong chuỗi logistics, việc kết nối các phương thức vận tải, các chủ thể hoạt động để giảm chi phí logistics và giúp hoạt động này trở nên chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.

Hai là, thiết lập cơ chế liên kết hữu hiệu giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics. Để có sự liên kết thường xuyên và hữu hiệu, các doanh nghiệp logistics cần chủ động nắm vững nghiệp vụ chuyên ngành thương mại, các quy tắc, các hiệp định thương mại song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Thường xuyên trao đổi thông tin có liên quan để giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics nắm bắt tình hình, hỗ trợ nghiệp vụ tiến tới xây dựng cổng thông tin giao dịch logistics tại mỗi khu vực phục vụ.

Ba là, nâng cao công tác dịch vụ chăm sóc khách hàng không chỉ đơn thuần là giải quyết các đơn đặt hàng của khách hàng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics cần đa dạng hóa các hoạt động chăm sóc khách hàng hơn nữa như: Tìm hiểu nhu cầu khách hàng; tư vấn hỗ trợ những dịch vụ kèm theo; theo dõi đơn hàng; xử lý tối ưu các vấn đề phát sinh trong quá trình cung ứng. Doanh nghiệp dịch vụ logistics cần phải đảm bảo chất lượng dịch vụ trong toàn chuỗi, theo dõi quá trình vận chuyển hàng hóa từ nhà máy đến điểm nhận hàng, đảm bảo hàng hóa khách hàng được vận chuyển một cách an toàn. Đảm bảo độ chính xác của các chứng từ hàng hóa, để việc làm thủ tục xuất khẩu ở nhà máy sản xuất và làm thủ tục nhập khẩu hàng không bị gián đoạn vì lỗi sai chứng từ. Nhân viên cần phải được đào tạo trình độ chuyên môn một cách kỹ lưỡng để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đặc biệt, trong những trường hợp phát sinh vấn đề, nhân viên có đủ kiến thức để xử lý một cách nhanh chóng, không trì hoãn. Cam kết dịch vụ được diễn ra đúng như hoạch định. Cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ đáp ứng như cầu và mong muốn của khách hàng như bốc xếp hàng hóa, chuyển phát nhanh chứng từ, xin chứng nhận xuất xứ, vệ sinh sửa chữa container theo yêu cầu của nhà máy,…

Bốn là, các doanh nghiệp logistics cần xây dựng đa dạng các chiến lược giá khác nhau, chọn lựa những chiến lược nào tùy thuộc vào điều kiện hiện tại, đối tượng khách hàng và mục tiêu hướng đến của nhà cung cấp. Việc phải cân đối giữa lợi nhuận của nhà cung cấp và lợi ích của khách hàng là điều vô cùng quan trọng. Chi phí mà khách hàng bỏ ra để sử dụng dịch vụ cần nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ nhà cung cấp, doanh nghiệp logistics. Doanh nghiệp cần nắm bắt được nhu cầu và mong muốn của khách hàng để đáp ứng các nhu cầu đó khách hàng cảm nhận được những gì mình nhận từ nhà cung cấp xứng đáng với khoản chi phí đã bỏ ra.

Tài liệu tham khảo:

https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Kinh-te/1026744/phat-trien-dich-vu-logistics-tren-dia-ban-ha-noi-nam-2022;

https://moit.gov.vn/tin-tuc/dia-phuong/xac-dinh-3-muc-tieu-va-5-nhom-nhiem-vu-trong-tam-trong-phat-trien-dich-vu-logistics.html;

Lê Năm (2018), https://kinhtedothi.vn/phat-trien-dich-vu-logistics-cua-ha-noi-chua-tuong-xung-voi-tiem-nang.html;

https://logistics.gov.vn/chinh-sach/trong-nuoc/ha-noi-thuc-day-doanh-nghiep-dich-vu-logistics-doi-moi-sang-tao;

Song Hà (2022), https://vneconomy.vn/phat-trien-logistics-can-mot-chinh-sach-dong-bo.htm.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 1 tháng 11/2022