Tín dụng chính sách xã hội: Kết quả triển khai và đề xuất giải pháp
Sau 15 năm triển khai, đồng hành cùng người nghèo và đối tượng chính sách, hoạt động tín dụng chính sách của ngành Ngân hàng đã thu được nhiều kết quả nổi bật, huy động được các nguồn lực tài chính để tạo lập nguồn vốn, tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách. Thành tựu này được đánh giá là “điểm sáng” và là một trong những “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam. Tổng quát 15 năm triển khai tín dụng chính sách đối với công tác giảm nghèo, bài viết đưa ra một số giải pháp cho thời gian tới.
Một số cơ chế, chính sách về tín dụng chính sách
Trong những năm qua, hệ thống chính sách tín dụng ưu đãi không ngừng được hoàn thiện, tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách được tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, từng bước nâng cao điều kiện sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Để tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động tín dụng chính sách, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tổ chức xây dựng kế hoạch, tham mưu trình ban hành và triển khai chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách giảm nghèo như:
- Chủ trì xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các cơ chế chính sách đối với hoạt động tín dụng chính sách, tạo sự đồng bộ, phù hợp với mục tiêu đặt ra như: Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 về tín dụng đối với hộ cận nghèo; Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo; Các thông tư quy định chi tiết về chính sách cho vay ưu đãi lãi suất theo chương trình hỗ trợ các huyện nghèo (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ); Quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay của người nghèo và các đối tượng chính sách khác; Hướng dẫn việc cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) (Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg ngày 28/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung); Hướng dẫn thực hiện cho vay trồng rừng sản xuất, phát triển chăn nuôi (Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020)...
- Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016), đề ra nhiệm vụ, giải pháp và phân công cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, nhằm tăng cường sự chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở trong việc xây dựng cơ chế chính sách và bố trí nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội.
- Hỗ trợ góp phần bảo đảm ổn định nguồn vốn để NHCSXH thực hiện các chương trình tín dụng chính sách thông qua việc NHNN tái cấp vốn cho NHCSXH; Ban hành các Thông tư hướng dẫn và thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) nhà nước thực hiện duy trì 2% số dư tiền gửi tại NHCSXH theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002.
- Hỗ trợ hoàn thiện, củng cố tổ chức và hoạt động của NHCSXH. Theo đó, NHNN đã cử lãnh đạo NHNN, lãnh đạo một số đơn vị tham gia HĐQT, ban chuyên gia tư vấn và ban kiểm soát HĐQT tại NHCSXH.
- Chủ động theo dõi, kịp thời phối hợp với các bộ, ngành, NHCSXH trình Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh giảm lãi suất và nâng mức cho vay các chương trình tín dụng chính sách phù hợp với điều kiện thị trường, cũng như đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
- Xây dựng và triển khai các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng thương mại cùng với dòng vốn tín dụng chính sách tại NHCSXH hỗ trợ, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống, thu nhập cho người nông dân trên các vùng miền toàn quốc, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, NHNN cũng đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành đơn vị có liên quan thực hiện rà soát hệ thống chính sách giảm nghèo, hoàn thiện cơ chế chính sách và khung pháp lý cho hoạt động tín dụng chính sách nói chung và hoạt động của NHCSXH nói riêng; Kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc phát sinh...
Kết quả triển khai hoạt động tín dụng chính sách
Trong 15 năm qua, vốn tín dụng chính sách đã được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước; trong đó, tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới...
Cụ thể, đến nay đã có trên 31,8 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn từ NHCSXH, với doanh số cho vay đạt 433.245 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt 272.336 tỷ đồng; Góp phần giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; Thu hút, tạo việc làm cho gần 3,4 triệu lao động, hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; Xây dựng trên 9,9 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; Gần 105 nghìn căn nhà cho hộ gia đình vượt lũ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, gần 528 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách, trên 11 nghìn căn nhà phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung; trên 112 nghìn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài...
Việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh quốc phòng; Góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2001-2005 từ 17% xuống 7%; giai đoạn 2005-2010 từ 22% xuống 9,45%; giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25% cuối năm 2015.
Hoạt động nhận ủy thác từ NHCSXH cũng đã tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp lực lượng, củng cố, nâng cao cả về số lượng, chất lượng phong trào hoạt động… Hiện nay, có 4 tổ chức chính trị - xã hội đang phối hợp với NHCSXH tham gia quản lý 166.660 tỷ đồng, trong đó: Hội Phụ nữ tham gia quản lý 65.633 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 39,4%); Hội Nông dân tham gia quản lý 53.438 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 32%); Hội Cựu chiến binh tham gia quản lý 26.300 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 15,8%); Đoàn Thanh niên tham gia quản lý 21.289 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 12,8%)…
Cùng với việc tăng trưởng tín dụng, chất lượng tín dụng chính sách không ngừng được củng cố và nâng cao, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh của toàn hệ thống NHCSXH giảm mạnh từ 13,75% tại thời điểm nhận bàn giao xuống còn 0,81% tại thời điểm 30/9/2017 (trong đó, nợ quá hạn 0,42%, nợ khoanh 0,39%).
Công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã và đang phát huy hiệu lực, hiệu quả. Công tác giám sát từ xa được chú trọng trong, qua đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc sử dụng vốn hiệu quả.
Việc đổi mới và đa dạng các hình thức truyền thông đã giúp người dân và các cấp, các ngành nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội.
Việc triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư đã có những tác động tích cực đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Cụ thể, dù NSNN có thời điểm khó khăn, nhưng các bộ, ngành đã quan tâm, tham mưu, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên dành nguồn lực để bổ sung cho NHCSXH; Bố trí vốn cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho NHCSXH; Bổ sung vốn điều lệ; Giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn NSNN giai đoạn 2016-2020.
Qua đó, đã đảm bảo nguồn lực, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Để tăng cường hoạt động tín dụng chính sách xã hội, NHCSXH đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành bổ sung một số chương trình tín dụng chính sách xã hội mới như: Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội; Cho vay bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo nhanh và bền vững theo; Cho vay hộ mới thoát nghèo; Cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà; Cho vay phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số...
Cùng với Trung ương, các tỉnh, thành phố cũng đã quan tâm hỗ trợ NHCSXH về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác, cân đối nguồn vốn ủy thác để bổ sung nguồn vốn cho vay trên địa bàn.
Theo thống kê, từ khi thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW đến nay, nguồn vốn ủy thác địa phương đã tăng thêm 4.593 tỷ đồng (tăng 118% so với trước khi có Chỉ thị 40-CT/TW), đưa tổng nguồn vốn ủy thác địa phương đến nay đạt 8.485 tỷ đồng.
Điển hình, một số tỉnh, thành phố có nguồn vốn ủy thác tại địa phương nhiều như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Đà Nẵng, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Cần Thơ, Đồng Tháp, Gia Lai, Quảng Nam...
Những tồn tại, hạn chế và một số giải pháp thực hiện
Bên cạnh kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng chính sách xã hội vẫn còn một số hạn chế sau:
- Nguồn lực để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách; NSNN cấp bổ sung vốn điều lệ, vốn các chương trình tín dụng chính sách chưa kịp thời.
- Một số chương trình tín dụng chính sách tuy có thời hạn cho vay dài nhưng chưa cân đối được nguồn lực tương ứng.
- Chất lượng tín dụng chính sách chưa đồng đều tại một số vùng. Một số địa phương tỷ lệ nợ quá hạn còn cao; Một số chương trình tín dụng tiềm ẩn rủi ro dẫn đến làm gia tăng nợ quá hạn.
- Tại một số nơi, công tác phối hợp giữa các hoạt động khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm với hoạt động tín dụng chính sách chưa được gắn kết, dẫn đến một bộ phận người nghèo sử dụng vốn vay chưa hiệu quả, chưa thoát nghèo bền vững.
Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế cũng như đảm bảo tín dụng chính sách phát triển theo hướng ổn định, bền vững, thời gian tới cần chú trọng tới một số giải pháp sau:
Một là, tập trung huy động nguồn lực và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã ban hành; Rà soát chỉnh sửa, bổ sung chính sách, chế độ cho phù hợp với thực tiễn.
Hai là, tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW và nâng cao vai trò, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội.
Ba là, tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Trong đó, đặc biệt coi trọng chất lượng tín dụng, công tác ủy thác của các tổ chức chính trị - xã hội của các Tổ tiết kiệm và vay vốn...
Bốn là, nâng cao chất lượng và hiệu quả nguồn nhân lực để thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Nâng cao nhận thức của người dân trong việc sử dụng nguồn vốn tín dụng và có trách nhiệm trong việc hoàn trả vốn vay.
Năm là, rà soát, đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các văn bản, quy định cho phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nhận dịch vụ ủy thác, các Tổ tiết kiệm và vay vốn.
Bảy là, tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ; đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Tám là, phối hợp hiệu quả giữa các hoạt động khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm của các tổ chức nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội với hoạt động tín dụng chính sách.
Chín là, thực hiện tốt công tác truyền thông về tín dụng chính sách, đặc biệt những chính sách tín dụng mới đến các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân biết để thực hiện và giám sát.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Bí thư (2014), Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội;
2. Thủ tướng Chính phủ (2013, Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 về tín dụng đối với hộ cận nghèo;
3. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, Báo cáo tổng kết 15 năm (2002 – 2017) thực hiện tín dụng chính sách xã hội;
4. Bùi Sỹ Lợi (2017), Tín dụng chính sách góp phần đưa Việt Nam dần thoát nghèo bền vững;
5. Các website: sbv.gov.vn, mof.gov.vn, nhcsxh.chinhphu.vn, tapchitaichinh.vn…