Truy xuất nguồn gốc cần đi vào thực chất

Theo Trương Đình/nhandan.com.vn

Truy xuất nguồn gốc hàng hóa (TXNG) đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành chuỗi cung ứng an toàn, từ đó tạo niềm tin tưởng của khách hàng đối với các sản phẩm và uy tín thương hiệu của Doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, doanh nghiệp và người tiêu dùng hiện chưa hiểu hết ý nghĩa và bản chất của TXNG.

Ảnh minh họa. Nguồn: interrnet
Ảnh minh họa. Nguồn: interrnet

Định nghĩa đúng “con tem”

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh tự do hóa thương mại, Việt Nam với nền kinh tế có độ mở lớn tham gia ký nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA). Để tận dụng tối đa lợi ích từ các hiệp định, doanh nghiệp (DN) Việt Nam cần đáp ứng “luật chơi chung” của rất nhiều đối tác quốc tế, đó là tuân thủ nghiêm ngặt, minh bạch quá trình TXNG hàng hóa. Trong quá trình TXNG, tem TXNG đóng vai trò then chốt trong việc định danh đối tượng cần truy xuất, giúp liên kết dữ liệu và tra cứu thông tin truy xuất trong suốt chuỗi cung ứng.

Tuy nhiên, tính trung thực của dữ liệu trong quá trình vận hành hệ thống TXNG trở thành vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây. Tại Hội thảo “Truy xuất nguồn gốc hàng hóa góp phần tạo thuận lợi thương mại” do Bộ Công thương tổ chức mới đây, ông Đào Hà Trung, Chủ tịch Hội Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh cho rằng, các mô hình TXNG hiện nay trên thị trường vẫn còn khác xa với quy định của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thí dụ ngay tại Điều 3, Thông tư 01/VBHN-BNNPTNT 2018 quy định về TXNG, thu hồi và xử lý thực phẩm nông lâm sản không bảo đảm an toàn, ban hành ngày 18-5-2018: “TXNG thực phẩm: là khả năng theo dõi, nhận diện được một đơn vị sản phẩm qua từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh”.

Thay vì nhận được thông tin đầy đủ về sản phẩm qua từng công đoạn của quá trình sản xuất theo đúng quy định của thông tư, người dùng khi quét mã QR code trên nhiều sản phẩm được bày bán công khai hiện nay thì chỉ mới nhận được những thông tin “hời hợt”, hoặc quét mã trên hàng chục sản phẩm cũng chỉ nhận được thông tin na ná giống nhau.

Trong khi việc tạo con tem có QR code đã trở nên dễ dàng và phổ biến hơn bao giờ hết. Thí dụ có thể kiểm tra cụm từ “tự tạo QR code” trên trang tìm kiếm Google, chỉ trong vòng 0,87 giây, người dùng có thể nhận được hơn 3 triệu kết quả. Hiện nay người cần tem truy xuất có thể dễ dàng tự khai báo thông tin trên các trang web của nhà cung cấp dịch vụ tạo code, sau đó tự in tem rồi dán lên sản phẩm. Điển hình vụ gần 4.000 con lợn bị tiêm thuốc an thần tại lò giết mổ Xuyên Á, lò mổ lớn nhất TP. Hồ Chí Minh, bị các cơ quan chức năng phát hiện vào gần cuối năm 2017, có rất nhiều con có vòng nhận diện TXNG, làm cho người tiêu dùng lại tiếp tục băn khoăn liệu con tem, vốn được coi là “chứng minh thư” của sản phẩm còn đáng tin cậy?

Truy xuất nguồn gốc “thời 4.0”

Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ với nhiều công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây, chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI)… kết hợp với các thiết bị phần cứng và chip điều khiển ngày càng nhỏ hơn. Với ứng dụng thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào vấn đề TXNG nói riêng và mọi mặt đời sống nói chung sẽ là xu thế của thời đại. Tại nhiều nước phát triển, TXNG đã đạt được bước tiến đáng kể về chất lượng công nghệ cũng như giá thành đầu tư cho hoạt động này. Đại diện đơn vị chuyên cung cấp các giải pháp TXNG cho nhiều nước trên thế giới, ông Gergely Koves, tư vấn viên cao cấp của TE-FOOD cho rằng, trong đó với việc áp dụng công nghệ blockchain truy xuất đầy đủ một con lợn từ trang trại tới bàn ăn sẽ chỉ tốn khoảng 0,5 USD (khoảng 11.500 VNĐ).

Tại Việt Nam, việc TXNG bằng phương thức nhập dữ liệu theo cách truyền thống thủ công tồn tại nhiều vấn đề, nhất là tính trung thực của dữ liệu là vấn đề đáng lo. Theo bà Đặng Thị Phương Ninh, Tổng Giám đốc Công ty Cofidec, một đơn vị có nhiều năm kinh nghiệm trong xuất khẩu hàng nông, thủy sản ra nước ngoài chia sẻ, dữ liệu trong quá trình xây dựng hệ thống TXNG vẫn thiếu độ tin cậy là do thời điểm ghi nhận và phát sinh dữ liệu diễn ra không đồng thời, trong khi việc lập hồ sơ lưu trữ bằng cách thức truyền thống dễ phát sinh nhầm lẫn. Điều này khiến cho khách hàng nhập khẩu và DN xuất khẩu tốn nhiều công sức, tài chính để kiểm soát hệ thống TXNG truyền thống.

Cùng quan điểm, ông Lê Đại Dương, Giám đốc Công ty iShopgo cho biết, trong thời đại bùng nổ công nghệ, việc TXNG không chỉ là việc “dán tem đơn thuần”. Bởi hoạt động TXNG phải được quản lý toàn bộ từ khâu sản xuất đến cung ứng sản phẩm, đồng thời tạo được hàng rào kỹ thuật để bảo vệ thị trường trong nước. Ông Dương đề xuất, cần xây dựng nhật ký sản xuất trực tuyến, cần minh bạch toàn bộ các công đoạn từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ, kết hợp sử dụng blockchain để chống sửa đổi dữ liệu, giúp các bên liên quan trong chuỗi cung ứng tăng cường kiểm soát chéo lẫn nhau theo thời gian thực. Chính sự ràng buộc về chất lượng sản phẩm và các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ giúp nâng cao giá trị sản phẩm, đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe và kiểm soát được chất lượng hàng hóa nhập khẩu.

Hiện chương trình TXNG điện tử thịt heo theo Đề án Quản lý, nhận diện và TXNG thịt heo do Sở Công thương TP Hồ Chí Minh phối với Công ty TNHH Chế tạo máy và dịch vụ công nghệ cao TE thực hiện mới đây là hình mẫu tiêu biểu của mô hình TXNG hiện đại đang được áp dụng tại Việt Nam. Trong khi tại Thủ đô Hà Nội thì phải đến năm 2019 mới mở rộng ứng dụng phần mềm hệ thống thông tin điện tử sử dụng mã QR thực hiện TXNG ở các sản phẩm khác, tập trung tại các cơ sở sản xuất, hợp tác xã, trang trại, cơ sở giết mổ tập trung… “Công tác quản lý chất lượng thực phẩm sẽ được chú trọng giám sát nhằm giúp người tiêu dùng được sử dụng nguồn thực phẩm sạch từ nông trại đến bàn ăn”, bà Phạm Thị Lý, Giám đốc Trung tâm DN hội nhập và phát triển cho biết.

Có thể nói, việc TXNG nếu được bảo đảm sẽ tăng cường mối liên kết, tương tác đa chiều giữa bốn đơn vị nhà quản lý - DN - nhà sản xuất - người tiêu thụ, qua đó tìm ra hướng hỗ trợ và định hướng DN, đóng góp hiệu quả vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy xuất khẩu, nhất là đối với sản phẩm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao.