Tổ chức Y tế thế giới:

Tỷ trọng thuế trên giá bán lẻ đạt từ 75% trở lên mới làm giảm tiêu dùng thuốc lá

PV. (t/h)

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho rằng, tăng thuế là biện pháp hiệu quả nhất để giảm tiêu dùng thuốc lá, giúp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy tiến trình đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

WHO cho rằng, thuế TTĐB cần phải tăng đủ lớn và tăng thường xuyên để có được tác động hiệu quả đối với giảm tiêu dùng.
WHO cho rằng, thuế TTĐB cần phải tăng đủ lớn và tăng thường xuyên để có được tác động hiệu quả đối với giảm tiêu dùng.

Tăng giá, giảm tiêu dùng

WHO cho biết, sử dụng thuốc lá là một trong nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong sớm. Thuốc lá chứa 7.000 hóa chất, trong đó có 69 chất gây ung thư và là nguyên nhân gây nên 25 loại bệnh như: Ung thư, tim mạch, các bệnh về hô hấp và sinh sản ...

Với 15,6 triệu người hút thuốc, Việt Nam thuộc nhóm 15 quốc gia trên thế giới có số người hút thuốc nhiều nhất. Mỗi năm, cả nước có trên 40.000 ca tử vong vì các bệnh do thuốc lá gây ra. Con số này sẽ tăng lên 70.000 ca/năm vào năm 2030, gấp gần 4 lần số ca tử vong vì tai nạn giao thông đường bộ trong toàn quốc nếu Việt Nam không phòng chống tác hại thuốc lá có hiệu quả.

Mới đây, WHO cũng đã khuyến cáo chính sách giá và thuế là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để kiểm soát tiêu dùng thuốc lá và có vai trò chiếm tới 50% trong việc giúp giảm hút thuốc (50% còn lại là từ các biện pháp khác như thực thi môi trường không khói thuốc, in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh, truyền thông về tác hại thuốc lá, cấm quảng cáo thuốc lá và hỗ trợ cai nghiện thuốc lá…).

Theo tính toán của WHO, khi giá thuốc lá tăng trung bình 10% sẽ làm giảm sử dụng thuốc lá khoảng 4% tại các nước có thu nhập cao và 5% tại các nước có thu nhập trung bình và thấp. Biện pháp thuế đặc biệt có hiệu quả đối với nhóm thanh thiếu niên, ước tính khi giá thuốc lá tăng khoảng 10% thì sẽ giảm sử dụng thuốc lá khoảng 10% hoặc hơn ở nhóm trẻ tuổi.

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) về phúc lợi và phân phối tác động của tăng thuế thuốc lá ở Việt Nam cũng cho thấy phần lớn dân số và đặc biệt là người nghèo được hưởng lợi khi giá thuốc lá tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tăng thuế đối với thuốc lá có thể làm giảm số lượng người nghèo ở Việt Nam, góp phần ngăn ngừa tử vong sớm do hút thuốc và giảm tình trạng bần cùng hóa do chi phí y tế liên quan đến thuốc lá.

Người dân Việt Nam sẽ được hưởng lợi thêm từ việc giảm hút thuốc lá thụ động, tăng năng suất của người lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống của người hút thuốc và gia đình họ đồng thời có thêm nguồn thu thuế để đầu tư vào các chương trình xã hội và y tế cùng nhiều tác động tích cực khác của việc tăng thuế đối với thuốc lá.

Tỷ lệ thuế thuốc lá tính theo giá bán lẻ tại Việt Nam vẫn thấp

WHO cho rằng, thuế và giá là giải pháp có chi phí thấp nhưng hiệu quả cao trong giảm tiêu dùng thuốc lá so với các giải pháp phòng chống tác hại thuốc lá khác và là giải pháp dự phòng hữu hiệu đã được WHO và WB khuyến cáo các nước áp dụng. Song Việt Nam lại thuộc nhóm các nước có mức thuế và giá thuốc lá thấp nhất thế giới, thấp hơn so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực.

Theo Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi số 70/2014/QH13, hiện nay Việt Nam đang áp dụng tính thuế suất thuế TTĐB theo tỷ lệ là 75% giá xuất xưởng. Tỷ lệ thuế thuốc lá tính theo giá bán lẻ (bao gồm thuế TTĐB và thuế giá trị gia tăng) chỉ chiếm 38.8% (2020), thấp hơn so với mức trung bình của các quốc gia có thu nhập trung bình (59%), chỉ bằng 1/2 của hầu hết các nước ASEAN (Thái Lan 78.6%, Singapore 67,1%, Indonesia 62.3%). Đáng chú ý, theo khuyến cáo của WHO và WB, tỷ trọng thuế thuốc lá trên giá bán lẻ phải đạt từ 75% trở lên mới thực sự có tác động làm giảm tiêu dùng.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh thuế TTĐB đối với mặt hàng thuốc lá, tuy nhiên tác động của mức tăng thuế đối với giá thuốc lá và tỷ lệ sử dụng thuốc lá là không đáng kể do vậy không đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ hút thuốc. Từ năm 2008 đến năm 2019, Việt Nam đã 3 lần tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá: Tăng mức thuế suất từ 55% lên 65% (năm 2008); tăng từ 65% lên 70% (năm 2016) và tăng từ 70% lên 75% (năm 2019).

Nhưng với mức tăng thuế suất thấp (5% - 10% với mỗi lần tăng), cơ sở tính thuế dựa trên giá xuất xưởng thấp và khoảng cách thời gian giữa các lần tăng thuế tương đối dài nên mức tăng giá thuốc lá do tăng thuế là không đáng kể.

Theo kết quả điều tra về tình hình sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành Việt Nam, giai đoạn 2015-2020, với hai lần tăng thuế (kết hợp thực hiện các chính sách phòng chống tác hại thuốc lá khác) thì tỷ lệ sử dụng thuốc lá chung chỉ giảm 0.8% (từ 22.5% năm 2015 xuống 21.7% năm 2020), tỷ lệ hút thuốc ở nam giới cũng chỉ giảm 3% (từ 45.3% năm 2015 xuống 42.3% năm 2020). Mức giảm này không đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ hút thuốc lá của nam giới trưởng thành Việt Nam xuống 39% vào năm 2020 trong Chiến lược quốc gia phòng chống tác hại thuốc lá đến năm 2020.

Thêm vào đó, do mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm cao hơn mức tăng giá thuốc lá đã làm cho sức mua thuốc lá ngày càng tăng. Theo phân tích của WHO dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 2010 đến 2022 thu nhập đầu người tăng 203% (từ 31,5 triệu đồng lên 95,6 triệu đồng) trong khi giá thuốc lá (nhãn hiệu phổ biến nhất, Vinataba) chỉ tăng 56% (từ 14.000 đồng lên 21.900 đồng /bao).

Phân tích sức mua thuốc lá bằng chỉ số “Giá thuốc lá tính theo phần trăm thu nhập quốc dân trên đầu người” cho thấy, nếu năm 2000 người dân Việt Nam phải chi tiêu 4,49% thu nhập của mình thì năm 2020 người dân Việt Nam chỉ chi tiêu 2,63% thu nhập để mua 100 bao thuốc lá có hương hiệu phổ biến trên thị trường. Điều này cho thấy, thuốc lá ở nước ta ngày càng rẻ hơn so với thu nhập nên dễ mua hơn.

Xu hướng giảm giá thực của thuốc lá và sức mua của thuốc lá tăng theo thời gian là vấn đề rất đáng lo ngại vì nó làm tăng khả năng tiếp cận thuốc lá của người dân, đặc biệt là đối với giới trẻ và người nghèo. Do đó, WHO cho rằng, thuế TTĐB cần phải tăng đủ lớn và tăng thường xuyên để có được tác động hiệu quả đối với giảm tiêu dùng.