Vai trò của Kiểm toán Nhà nước với hoạt động tuyển sinh ở các trường đại học công lập
Cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập ở nước ta ngày càng phát huy hiệu quả tích cực, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Tự chủ đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các trường đại học công lập trong công tác tuyển sinh, tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, cơ chế này còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về pháp lý, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Trong bối cảnh này, cần tiếp tục tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong việc phát hiện các lỗ hổng pháp lý, góp phần tích cực vào hoàn thiện cơ chế, chính sách tự chủ nói chung và làm lành mạnh công tác tuyển sinh của các trường đại học công lập nói riêng.
Pháp lý về tự chủ và công tác tuyển sinh của các trường đại học công lập
Đáp ứng yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tinh thần Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, ngày 25/4/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), trong đó có các trường đại học công lập (ĐHCL).
Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, các cơ sở giáo dục ĐHCL được thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính nhằm phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, từng bước nâng cao thu nhập cho người lao động; thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, góp phần giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước (NSNN).
Nhờ có cơ chế tự chủ, các trường ĐHCL đã chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn kinh phí NSNN giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; nhiều cơ sở đã huy động nguồn vốn xã hội hóa để mở rộng hoạt động sự nghiệp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, phát triển nguồn thu học phí tạo nguồn cải cách tiền lương; tiết kiệm chi, tăng thu nhập cho viên chức, giảng viên…; chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng; kiểm soát chi tiêu nội bộ trên cơ sở đảm bảo tính dân chủ; phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động…
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ đầy đủ và cao hơn cho các ĐVSNCL, ngày 14/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP) quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và khuyến khích các đơn vị có điều kiện vươn lên tự chủ ở mức cao.
Việc tự chủ của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhân sự và tài chính được quy định tương ứng với từng loại hình ĐVSNCL, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao, khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ NSNN. Trong đó, có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.
Nhìn chung, kể từ khi có hiệu lực đến nay, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã phát huy hiệu quả. Kết quả triển khai các Nghị định trên là minh chứng thiết thực, khẳng định việc chuyển đổi cơ chế quản lý hệ thống giáo dục đại học của nước ta từ mô hình Nhà nước thực hiện sang mô hình Nhà nước giám sát là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của thế giới. Tự chủ không những làm giảm áp lực NSNN, mà còn mở ra cơ hội cho các cơ sở đào tạo phát huy tính chủ động, sáng tạo, đổi mới trong giáo dục, đào tạo.
Xét về khía cạnh tài chính, nguồn thu của các trường ĐHCL gồm: (i) Kinh phí do NSNN cấp; (ii) Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp; (iii) Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật; (iv) Nguồn khác. Trong xu hướng gia tăng mức độ tự chủ tài chính của các trường đại học, nguồn thu từ học phí ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, (khoảng 50-70% tổng thu của các trường). Phần kinh phí NSNN cấp có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên trong thực tế, nguồn thu từ học phí của các trường không hoàn toàn thuận lợi như nhau, do phụ thuộc vào lượng sinh viên được đào tạo và mức thu học phí.
Hiện nay, chỉ tiêu tuyển sinh là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến số lượng sinh viên được đào tạo. Cách thức xác định và quyết định chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học được quy định tại Thông tư số 06/2018/TT-BGDĐT ngày 28/02/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm. Chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm của các trường được xác định các tiêu chí theo:
(i) Số giảng viên quy đổi. Số giảng viên quy đổi phụ thuộc vào số lượng giảng viên và chức danh của giảng viên. Giảng viên có trình độ cử nhân hệ số quy đổi 0,3; trình độ thạc sỹ: 1,0; trình độ tiến sỹ: 2,0; chức danh phó giáo sư: 3,0; chức danh giáo sư: 5,0.
(ii) Diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo thuộc sở hữu của cơ sở giáo dục tính trên một sinh viên chính quy của các hạng mục công trình và yêu cầu về chủng loại, số lượng học liệu, trang thiết bị tối thiểu theo yêu cầu của chương trình đào tạo và nghiên cứu khoa học.
(iii) Nhu cầu lao động của thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Khả năng tuyển sinh của một trường đại học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nội tại, với yếu tố cơ bản là giảng viên (số lượng và trình độ) và cơ sở vật chất. Muốn gia tăng số lượng sinh viên, thu hút được nhiều người tham gia ứng tuyển thì các trường phải xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cùng với đó là đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo. Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy, các trường có khả năng tuyển sinh (có nghĩa là được phép tuyển sinh) nhưng không tuyển đủ chỉ tiêu. Thực tiễn này đang diễn ra phổ biến ở những ngành, chuyên ngành đào tạo hẹp.
Mức thu học phí của các trường đại học được khống chế theo giới hạn trần. Nghị quyết số 77/ NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với một số cơ sở giáo dục ĐHCL quy định: Cơ sở giáo dục ĐHCL khi cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện và quyết định mức học phí bình quân (của chương trình đại trà) tối đa bằng mức trần học phí do Nhà nước quy định cộng với khoản chi thường xuyên NSNN cấp bình quân cho mỗi sinh viên công lập trong cả nước; quyết định mức học phí cụ thể (cao hoặc thấp hơn mức học phí bình quân) đối với từng ngành, nghề, chương trình đào tạo theo nhu cầu người học và chất lượng đào tạo, bảo đảm mức học phí bình quân trong nhà trường không vượt quá giới hạn mức học phí bình quân tối đa nêu trên; thực hiện công khai mức học phí cho người học trước khi tuyển sinh. Nghĩa là, các trường được phép xác định mức học phí cụ thể của từng ngành, chuyên ngành đào tạo nhưng mức học phí bình quân không vượt quá giới hạn cho phép.
Mức trần học phí đối với các chương trình đào tạo đại trà trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục công lập được phân theo 2 nhóm sau: (i) Cơ sở giáo dục tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư; (ii) Cơ sở giáo dục chưa tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư và áp dụng theo các khối ngành, chuyên ngành đào tạo. Học phí từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021 đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
Một số khó khăn trong tuyển sinh của các trường đại học công lập tự chủ
Có thể khẳng định, cơ chế tự chủ đã tạo lập môi trường tích cực để các trường đại học phát triển. Tuy nhiên, cơ hội và thách thức đối với các trường không giống nhau. Nhiều trường có điều kiện để bứt phá, vươn lên, nhưng cũng không ít cơ sở giáo dục gặp khó khăn và chưa tìm được lời giải. Bài viết phân tích một số khó khăn mang tính chung nhất đối với các trường đại học trong công tác tuyển sinh, những tồn tại, khó khăn này ứng với tất cả các trường ĐHCL nước ta.
Thứ nhất, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học gặp phải hiện nay chính là mâu thuẫn về quyền tự chủ tài chính nhưng lại bị giới hạn về mức thu học phí; do vậy, muốn gia tăng nguồn thu thì các trường phải đẩy mạnh công tác tuyển sinh. Rõ ràng, học phí là nguồn thu cơ bản của các trường đại học trong bối cảnh tự chủ, nguồn thu này phải dần đủ lớn để trang trải những chi phí mà cơ sở giáo dục thực hiện để cung cấp dịch vụ giáo dục đại học.
Tuy vậy, theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục đại học chỉ được áp dụng mức thu không vượt quá giới hạn tối đa (đang được xây dựng ở mức thấp). Điều này khiến nhiều trường đại học không có điều kiện gia tăng các khoản chi để thúc đẩy các yếu tố cần thiết đảm bảo chất lượng đào tạo như: đầu tư phát triển giảng viên, tăng chi đầu tư cơ sở vật chất…
Mối quan hệ giữa quyền tự chủ với giới hạn trần về học phí đã không còn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường. Người thụ hưởng muốn được cung cấp dịch vụ chất lượng tốt và nhà cung cấp sẵn sàng cung cấp nhưng lại không được “bán” với “giá” tương xứng với chất lượng sản phẩm của mình. Vòng luẩn quẩn chi phí thấp dẫn đến chất lượng thấp sẽ tiếp diễn và không được cải thiện nếu không có sự đột phá. Giải pháp để gỡ khó đối với không ít trường hiện nay là tăng chỉ tiêu đào tạo. Điều này mang lại khá nhiều hệ lụy và ảnh hưởng về lâu dài nếu sự gia tăng quy mô đào tạo không gắn với nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ hai, nhiều trường đại học đã phải áp dụng những biện pháp có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục để đảm bảo tuyển sinh đủ chỉ tiêu. Hạ thấp điểm chuẩn để gia tăng cơ hội trúng tuyển đã được không ít cơ sở giáo dục đại học áp dụng và trong thực tế đã xuất hiện tình trạng đánh đổi giữa chất lượng với quy mô đào tạo. Khó khăn cho một cơ sở giáo dục trong việc đảm bảo cung ứng cho xã hội những sinh viên tốt nghiệp ra trường có chất lượng cao, trong khi đầu vào chỉ tuyển được những học sinh có trình độ thấp.
Thực tế cho thấy, uy tín của một số trường đã bị giảm sút do chạy theo quy mô đào tạo, buông lỏng quản lý. Sự cạnh tranh giữa các trường trong tuyển sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Hiện tượng “chiều lòng” người học có xu hướng gia tăng, tác động trực tiếp đến duy trì kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đào tạo của không ít trường đại học.
Thứ ba, thu nhập của phần đa giảng viên đại học (đặc biệt là giảng viên trẻ) còn thấp, chưa tạo được động lực thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn. Theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục ĐHCL chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định. Cơ chế tiền lương hiện mang đặc tính cào bằng là chủ yếu.
Giới hạn trần học phí cũng là nút thắt khiến các trường đại học không có đủ nguồn tài chính để cải thiện thu nhập cho giảng viên, do đó, không tạo được sự hấp dẫn để thu hút và giữ chân những giảng viên có trình độ. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tuyển sinh của các trường đại học do không nâng cao được chất lượng giáo dục (xét trên khía cạnh trình độ, năng lực của giảng viên) để thu hút nhiều học sinh tham gia ứng tuyển.
Thứ tư, công tác tổ chức, quản lý, sử dụng nguồn thu từ người học thực hiện chưa đúng với quy định của pháp luật. Tình trạng lạm thu, đặt ra nhiều khoản thu không theo quy định, vượt định mức, sai đối tượng, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, trích lập các quỹ không phù hợp… có thể xảy ra do áp lực gia tăng chi tiêu của các cơ sở giáo dục ĐHCL.
Vai trò của Kiểm toán Nhà nước đối với hoạt động tuyển sinh ở các trường đại học công lập tự chủ
Kiểm toán Nhà nước, cơ quan do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, thông qua hoạt động kiểm toán tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản các trường ĐHCL, các cơ sở giáo dục đại học… chú trọng những khía cạnh để góp phần (gián tiếp) lành mạnh hóa công tác tuyển sinh của các trường ĐHCL trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ, thể hiện cụ thể như:
Một là, đánh giá môi trường pháp lý về cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục ĐHCL, từ đó, kiến nghị hoàn thiện chính sách: Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ chế tự chủ bên cạnh tạo động lực phát triển cho nhiều trường ĐHCL nhưng cũng gây không ít khó khăn cho các trường trong quá trình thực hiện. Nhiều cơ sở giáo dục ĐHCL không muốn tự chủ hoặc chậm gia tăng mức độ tự chủ, bởi còn tồn tại nhiều quy định pháp luật ràng buộc đan chéo hoặc mâu thuẫn.
Thực trạng này đang đặt các trường ĐHCL trước những rủi ro pháp lý. Kiểm toán Nhà nước cần xác định việc đánh giá toàn diện cơ chế, chính sách tự chủ của các trường ĐHCL là một trọng tâm kiểm toán, tập trung nguồn lực phát hiện các lỗ hổng cơ chế, để từ đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xóa bỏ, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL, đảm bảo sự rõ ràng, tường minh và đồng bộ.
Hai là, chỉ rõ những điểm đạt được và những lỗi, sai sót về tài chính liên quan đến công tác tuyển sinh: Theo quy định của pháp luật, đối tượng của Kiểm toán Nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Công tác tuyển sinh được các trường đại học thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tuy không là đối tượng của Kiểm toán Nhà nước nhưng có liên quan trực tiếp đến nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán tại các trường ĐHCL, kiểm toán viên cần chỉ rõ những kết quả đơn vị đạt được, đồng thời nhấn mạnh những lỗi, sai sót về tài chính có liên quan đến hoạt động tuyển sinh, ví dụ như: thu học phí không đúng quy định, vượt quy định; công tác tổ chức, quản lý, sử dụng nguồn thu học phí sai quy định; trích lập các quỹ từ nguồn thu học phí không phù hợp; miễn, giảm học phí sai đối tượng…
Các lỗi, sai sót cần được phân tích nguyên nhân và gắn với trách nhiệm của những cá nhân, tập thể cụ thể. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên nhà nước hình thành ý kiến, kết luận kiểm toán để kiến nghị các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền lành mạnh công tác quản lý tài chính gắn với công tác tuyển sinh của các trường đại học.
Ba là, phát huy chức năng tư vấn của Kiểm toán Nhà nước để giúp các cơ sở giáo dục ĐHCL thực hiện tiến trình tự chủ đạt hiệu quả cao: Nhiều cơ sở giáo dục ĐHCL thực hiện tiến trình tự chủ nhưng không đủ chắc chắn để khẳng định những chính sách đang được cơ sở thực thi đạt hiệu quả như mong muốn.
Với lợi thế trình độ chuyên môn và kinh nghiệm từ việc thực hiện kiểm toán tại nhiều cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn trải rộng cả nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ chủ quản… kiểm toán viên nhà nước cần tăng cường tư vấn để giúp các đơn vị được kiểm toán hiểu rõ và thực hiện đúng cơ chế tự chủ. Sự thành công của các trường đại học nói chung và trong công tác tuyển sinh nói riêng khi thực hiện cơ chế tự chủ sẽ góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Kiểm toán Nhà nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;
2. Chính phủ (2015), Nghị định 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021;
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;
4. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với một số cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014-2017;
5. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư số 06/2018/TT-BGDĐT ngày 28/02/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ trung cấp, cao đẳng các ngành đào tạo giáo viên; trình độ đại học, thạc sỹ, tiến sỹ.