Xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2018
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 3/2018 đạt 21.133 triệu USD, là tháng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất từ trước đến nay.
So với số ước tính, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2018 cao hơn 1.333 triệu USD, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 268 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 186 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 119 triệu USD; thủy sản cao hơn 102 triệu USD; sắt thép cao hơn 96 triệu USD; gạo cao hơn 78 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 51 triệu USD; hạt điều cao hơn 46 triệu USD; cà phê cao hơn 40 triệu USD; hạt tiêu cao hơn 33 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 25 triệu USD; dầu thô cao hơn 23 triệu USD; rau quả cao hơn 22 triệu USD; sản phẩm từ chất dẻo cao hơn 21 triệu USD; cao su thấp hơn 22 triệu USD; xăng dầu thấp hơn 26 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng thấp hơn 29 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư năm nay ước tính đạt 18,20 tỷ USD, giảm mạnh 13,9% so với tháng trước chủ yếu do số ngày làm việc trong tháng ít hơn 3 ngày so với tháng trước và các sản phẩm Galaxy S9, S9+ được Samsung tập trung xuất khẩu trong tháng Ba.
Trong kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4/2018, khu vực kinh tế trong nước đạt 5,0 tỷ USD, giảm 12,5% so với tháng trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,20 tỷ USD, giảm 14,4%.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trong tháng 4 đều có kim ngạch giảm so với tháng trước, trong đó một số mặt hàng giảm mạnh: Sắt thép giảm 32,1%; điện thoại và linh kiện giảm 24,1%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 11,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 12,5%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư năm nay tăng 4,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 2,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 32,2%, hàng dệt may tăng 18,4%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 17,9%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 73,76 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 20,28 tỷ USD, tăng 17,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) chiếm tới 72,5% tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 53,48 tỷ USD, tăng 19,4%.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước:Điện thoại và linh kiện đạt 16,6 tỷ USD, tăng 36,8%; hàng dệt may đạt 8,6 tỷ USD, tăng 15,7%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 8,3 tỷ USD, tăng 10,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5 tỷ USD, tăng 29,6%; giày dép đạt 4,5 tỷ USD, tăng 6,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,6 tỷ USD, tăng 18,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,6 tỷ USD, tăng 9%.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: thủy sản đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13%; rau quả đạt 1,3 tỷ USD, tăng 26,2%; hạt điều đạt 1,1 tỷ USD, tăng 33,5% (lượng tăng 24,6%); gạo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 38,3% (lượng tăng 22,3%). Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 668 triệu USD, giảm 24,9% (lượng giảm 41,4%); hạt tiêu đạt 317 triệu USD, giảm 31,9% (lượng tăng 17,9%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 4 tháng đầu năm nay, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 14 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 56,4%; giày dép tăng 13,5%; hàng dệt may tăng 12,1%. Tiếp đến là EU đạt 13,2 tỷ USD, tăng 16%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 41,9%; điện thoại và linh kiện tăng 30,7%;điện tử, máy tính và linh kiện tăng 7,9%.
Trung Quốc đạt 10,7 tỷ USD, tăng 29%, trong đó điện thoại và linh kiện gấp gần 3,7 lần cùng kỳ năm trước; rau quả tăng 24%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 23%. Thị trường ASEAN đạt 7,9 tỷ USD, tăng 16,4%, trong đó gạo tăng 159%; sắt thép tăng 52,5%; điện thoại và linh kiện tăng 16%.
Nhật Bản đạt 5,8 tỷ USD, tăng 15,2%, trong đó hàng dệt may tăng 24,1%;phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 17,2%. Hàn Quốc đạt 5,8 tỷ USD, tăng 31,2%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 46,2%; điện thoại và linh kiện tăng 37,4%; hàng dệt may tăng 22,6%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 3/2018 đạt 18.875 triệu USD, thấp hơn 125 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 220 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 119 triệu USD; sắt thép thấp hơn 41 triệu USD; sản phẩm hóa chất thấp hơn 34 triệu USD; phương tiện vận tải khác và phụ tùng thấp hơn 32 triệu USD; ô tô nguyên chiếc thấp hơn 30 triệu USD; bông thấp hơn 28 triệu USD; xăng dầu, thủy sản và lúa mỳ cùng thấp hơn 16 triệu USD; cao su thấp hơn 12 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tư ước tính đạt 17,50 tỷ USD, giảm 7,3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,90 tỷ USD, giảm 7,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,60 tỷ USD, giảm 7,2%.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm so với tháng trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 4,4%; chất dẻo giảm 10,6%; lúa mỳ giảm 13,4%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 18,9%; khí đốt hóa lỏng giảm 19,3%; xăng dầu giảm 19,6%; cao su giảm 23,9%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng Tư tăng nhẹ 1,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 6,1%; khu vực có đầu tư nước ngoài giảm 1,8%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước: Kim loại thường khác tăng 41,2%; chất dẻo tăng 26%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 70,37 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 28,06 tỷ USD, tăng 11,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 42,31 tỷ USD, tăng 9,3%.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 13,4 tỷ USD, tăng 22,3%; điện thoại và linh kiện đạt 4,4 tỷ USD, tăng 9,8%; vải đạt 3,7 tỷ USD, tăng 10%; xăng dầu đạt 2,8 tỷ USD, tăng 31,6%; chất dẻo đạt 2,8 tỷ USD, tăng 22,2%; kim loại thường đạt 2,3 tỷ USD, tăng 33,7%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 1,7 tỷ USD, tăng 1%; hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 23,7%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 4 tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 18,1 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 19,8%; vải tăng 5,6%.
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 15,5 tỷ USD, tăng 7,6%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39,5%; điện thoại và linh kiện tăng 13,7%.
ASEAN đạt 9,9 tỷ USD, tăng 14,5%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 22,9%;điện tử, máy tính và linh kiện tăng 18,9%; xăng dầu tăng 17,8%. Nhật Bản đạt 5,9 tỷ USD, tăng 16,1%, trong đó linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 36%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 33,8%.
EU đạt 4 tỷ USD, tăng 9,7%, trong đó chất dẻo nguyên liệu tăng 41,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 23,6%. Hoa Kỳ đạt 3,6 tỷ USD, tăng 18%, trong đó thức ăn gia súc và NPL tăng 28,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 13,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 7,3%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Ba xuất siêu 2,26 tỷ USD. Tháng Tư ước tính tiếp tục xuấtsiêu 700 triệu USD. Tính chung 4 tháng đầu năm xuất siêu 3,39 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 7,78 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 11,17 tỷ USD.