Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng với xăng dầu

Trần Huyền

Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ phương án giảm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đối với xăng dầu nhằm góp phần giảm giá mặt hàng này, qua đó hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi và phát triển kinh tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Bộ Tài chính cho biết, cùng với giải pháp điều chỉnh giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhóm xăng, dầu, mỡ nhờn xuống mức sàn trong khung thuế đến hết ngày 31/12/2022 và giải pháp điều chỉnh giảm mức thuế tối huệ quốc (MFN), Bộ Tài chính đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất phương án giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng và giảm thuế giá trị gia tăng đối với xăng dầu nhằm góp phần giảm giá mặt hàng xăng dầu, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi và phát triển kinh tế.

Đề xuất này của Bộ Tài chính nhằm đảm bảo tính kịp thời trong việc ổn định giá xăng dầu trong nước trước biến động của giá xăng dầu trên thị trường thế giới, giúp kiềm chế lạm phát, góp phần hỗ trợ phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh.

Trước đó, Bộ Tài chính đã đề xuất giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; nhiên liệu bay xuống mức sàn 1.000 đồng/lít; dầu diesel là 500 đồng/lít; dầu mazut, dầu nhờn là 300 đồng/lít; mỡ nhờn là 300 đồng/kg; dầu hỏa giữ mức 300 đồng/lít vì đây là mức sàn trong khung mức thuế.

Đồng thời, để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trước bối cảnh của dịch bệnh và chiến tranh đang diễn ra, tại dự thảo Nghị định Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng động cơ, không pha chì (HS 2710.12.2x) từ mức 20% hiện nay xuống mức 12% (chênh 4% so với thuế suất FTA từ Hàn Quốc và ASEAN).

Đề xuất giảm mức thuế suất MFN trên sẽ góp phần đa dạng hóa nguồn cung xăng dầu từ các quốc gia khác như Trung Quốc, Hoa Kỳ và các quốc gia khu vực Trung Đông, tránh sự phụ thuộc quá lớn vào một số đối tác như hiện nay trong trường hợp nguồn cung trên thị trường thế giới biến động. Mức thuế suất này cũng đảm bảo mức chênh lệch phù hợp với mức thuế suất theo các FTA mà Việt Nam đã ký kết.