Ân hạn nộp thuế tối đa 275 ngày cho doanh nghiệp
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế được Quốc hội thông qua sáng nay 20/11, các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu vẫn được giữ thời hạn nộp thuế tối đa là 275 ngày.
Sáng ngày 20/11, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế. Với tỷ lệ 92,57% đại biểu tham gia biểu quyết đồng ý, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua.
Theo Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế do ông Phùng Quốc Hiển, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban tài chính, ngân sách của Quốc hội trình bày: Việc sửa đổi, bổ sung Luật cần quán triệt nguyên tắc, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác, phải bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giữ nghiêm kỷ luật tài chính, ngăn chặn các hành vi chây ỳ, trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN).Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xin tiếp thu theo hướng giữ quy định hiện hành về ân hạn đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng có phân loại doanh nghiệp để áp dụng ân hạn. Cụ thể: Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, thời hạn nộp thuế tối đa là 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nếu đáp ứng đủ các điều kiện như: Có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam; Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất hai năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế; nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt.
Ngoài ra, các doanh nghiệp phải đáp ứng thêm các điều kiện như: Tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê; Thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, luật cũng quy định các trường hợp khác phải nộp thuế trước khi thông quan, giải phóng hàng hóa hoặc phải được tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Về xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế, xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, có ý kiến cho rằng, quy định tại khoản 1 Điều 107 có thể hiểu 1 hành vi khai sai nhưng bị xử phạt tới 2 lần, trái với nguyên tắc một hành vi vi phạm pháp luật về thuế chỉ xử phạt một lần. Ý kiến khác đề nghị bổ sung cụm từ “tiền chậm nộp” vào nội dung các điều, khoản liên quan trong Luật.
Ông Phùng Quốc Hiển cho biết, UBTVQH nhận thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 107 của Dự thảo luật thì hành vi khai sai bị xử phạt 20% số tiền thuế khai thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn cao hơn; còn khoản “tiền chậm nộp” là khoản tiền lãi doanh nghiệp phải trả cho khoảng thời gian chậm nộp tiền thuế. Để bảo đảm thống nhất nội dung các điều luật, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH xin bổ sung cụm từ “tiền chậm nộp” trước cụm từ “tiền phạt” tại các điều 3, 5, 65, 66, 92, 93, 98, 99, 100, 101, 102, 113, 114 của Luật quản lý thuế.
Về ý kiến cho rằng, việc doanh nghiệp nợ thuế giá trị gia tăng không thể coi là hành vi chậm nộp tiền thuế mà nên đưa vào hành vi chiếm dụng tiền thuế để xử lý. Theo đó, UBTVQH giải trình cho rằng, việc chậm nộp dẫn đến nợ thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan. Vì vậy, sẽ không thật hợp lý nếu coi mọi trường hợp nợ thuế là chiếm dụng tiền thuế. Đồng thời, theo quy định tại Điều 92 của Luật quản lý thuế hiện hành và Điều 106 của Dự thảo luật thì trường hợp người nộp thuế chậm nộp tiền thuế sau 90 ngày sẽ phải nộp tiền chậm nộp theo mức 0,07%/ngày và bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Vì vậy, UBTVQH xin cho giữ như quy định của Dự thảo luật.
Còn về ý kiến đề nghị không quy định tỷ lệ tiền chậm nộp trong Luật, nên giao Chính phủ quy định cụ thể trên cơ sở tham chiếu với lãi suất ngân hàng tại từng thời điểm, UBTVQH cho rằng: Quy định về tỷ lệ tiền chậm nộp liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế; việc không quy định cụ thể tỷ lệ tiền chậm nộp trong Luật và giao Chính phủ quy định sẽ không bảo đảm tính ổn định, minh bạch. Mặt khác, nếu quy định tỷ lệ tiền chậm nộp thay đổi theo lãi suất ngân hàng sẽ gây khó khăn cho người nộp thuế trong quá trình tính toán, kê khai tiền chậm nộp. Vì vậy, UBTVQH xin cho giữ như quy định của Dự thảo luật.